Các loại rắn hổ mang, rắn ráo... (loại Colubridae) có độc tố thần kinh. Chỗ rắn cắn không đau lắm nhưng chân tê bại, mệt mỏi cao độ, buồn ngủ, muốn ngất, nấc, nôn, tối loạn cơ tròn... Mạch yếu, huyết áp hạ, khó thở, hôn mê rồi tử vong sau 6 giờ.
Rắn lục (loại Vipéridae) có độc tố gây xuất huyết. Toàn chi bị rắn cắn đau dữ dội, da đỏ bầm, có những đám xuất huyết, chỗ bị rắn cắn phù (sau dễ bị hoại tử). Sau 30' đến 1h: nôn, ỉa lỏng, mạch nhanh nhỏ, huyết hạ, ngất.
Nếu bị rắn cắn sau 15-30' mà vết cắn không đau, không phù, chi bị cắn không tê bại thì không phải rắn độc cắn.
Xử trí:
- Đặt garo trên chỗ rắn cắn: không thắt quá chặt, không để garô lâu quá 30'.
- Rạch nhẹ da ở vết rắn cắn, hút máu bằng ống giác..., rửa vết thương bằng dung dịch KMnO4 1%.
- Tiêm huyết thanh kháng nọc rắn đặc hiệu hoặc toàn nǎng (ống 5-10ml): 1 ống xung quanh chỗ rắn cắn, 1 ống dưới da ở đùi bị rắn cắn. Trường hợp nạn nhân đến muộn, tình trạng thật nguy kịch không thể trì hoãn được, có thể tiêm tĩnh mạch thất chậm 1 ống (thử phản ứng trước nếu xét thời gian cho phép).
Nếu không có huyết thanh kháng nọc rắn:
- Tiêm dưới da xung quanh vết rắn cắn dung dịch KMnO4 1% (vô trùng) 10ml.
- Truyền tĩnh mạch dung dịch NaCl 9%o: 1500-2000ml.
- Tiêm huyết thanh kháng uốn ván SAT 1500 đơn vị dưới da và anatoxin 2ml cũng tiêm dưới da, ở vị trí khác và bằng một bơm tiêm khác.
- Kháng sinh: penicillin, streptomycin...
- Trợ tim mạch: long não, coramin, uống nước chè nóng.
- Chống sốc và dị ứng: Depersolon 30mg x 1-2 ống tiêm tĩnh mạch.
- Nếu có tan huyết: truyền máu, vitamin C, Ca gluconat tiêm tĩnh mạch.
- Nếu ngạt: thở oxy, hô hấp hỗ trợ.
Nọc Colubridae giải phóng nhiều histamin trong cơ thể, phải chống dị ứng: tiêm pipolphen, promethazin...
- Nếu nạn nhân đau nhiều: cho thuốc giảm đau nhưng không dùng các loại opi vì có thể ức chế trung tâm hô hấp.
theo http://www.cimsi.org.vnTriệu chứng:
- Đau dữ dội và sưng đỏ, phù tại chỗ bị ong đốt.
- Triệu chứng nặng hơn nếu bị nhiều ong đốt một lúc hoặc nọc ong vào đúng mạch máu. Có thể khó thở, tức ngực, chóng mặt, mạch nhanh, huyết áp hạ, có khi co giật (nhất là trẻ em). Có khi có phản ứng dị ứng: nổi mẩn, phù Quinck.. - Nếu bị đốt vào miệng, vào họng có thể bị ngạt thở. Xử trí: - Rút kim châm của ong. - Rửa vết đốt bằng dung dịch thuốc tím 0,1-0,2%. - Chấm vết đốt bằng dung dịch amoniac hoặc một dung dịch kiềm. - Tiêm hydrocortisol 2-3ml tại chỗ đốt. - Chống sốc dị ứng. - Trợ tim mạch: long não, coramin... - Nếu bị ong đốt vào miệng gây phù thanh môn: cho corticoid, nếu ngạt: mở khí quản.
Ngắt dòng điện. Phải chú ý đề phòng bệnh nhân ngã khi ngắt điện.
- Nếu bệnh nhân ngừng tim, ngừng thở: xem Ngừng tuần hoàn hô hấp
Dùng máy phá rung thất và máy hô hấp hỗ trợ. Nếu hồi sức chậm có kết quả, tiêm thẳng vào tim Ouabain 1/4mg x 1 ống và tiếp tục hồi sức.
Khi nạn nhân tỉnh, chữa bỏng... Chú ý theo dõi viêm ống thận gây toan máu.
- Nếu bệnh nhân chỉ mê man bất tỉnh nhưng vẫn thở và tim vẫn đập: kích thích bằng gọi, giật tóc, vã nước vào mặt... Theo dõi mạch, nhịp thở, huyết áp.
theo http://www.cimsi.org.vn
Tác nhân gây bỏng có nhiều loại:
- Bỏng do nhiệt thường gặp nhất, chia thành 2 nhóm: do nhiệt khô (lửa, tia lửa điện, kim loại nóng chảy...) và do nhiệt ướt (nước sôi, thức ăn nóng sôi, dầu mỡ sôi, hơi nước nóng...)
- Bỏng do dòng điện chia thành 2 nhóm: do luồng điện có hiệu điện thế thông dụng (<1000v)>1000V). Sét đánh cũng gây bỏng do luồng điện có hiệu điện thế cao.
- Bỏng do hóa chất gồm các chất oxy hóa, chất khử oxy, chất gặm mòn, chất gây độc cho bào tương, chất làm khô, chất làm rộp da... Trong thực tế lâm sàng chia thành 2 nhóm: nhóm acid và nhóm chất kiềm. Bỏng do vôi tôi nóng là loại bỏng vừa do sức nhiệt vừa do chất kiềm.
- Bỏng do các bức xạ: tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia Rơnghen, tia laser, hạt cơ bản b , g .
Lâm sàng:
- Viêm da cấp do bỏng (viêm vô khuẩn cấp): bỏng độ I.
- Bỏng biểu bì: bỏng độ II
- Bỏng trung bì thường gọi là bỏng trung gian, bỏng độ II sâu, bỏng độ III, bỏng độ IIIA, bỏng độ III nông.
- Bỏng toàn bộ lớp da còn gọi là bỏng độ III, IIIB, III sâu, bỏng độ IV). Hoại tử ướt, hoại tử khô.
- Bỏng sâu các lớp dưới da còn gọi là bỏng độ III, III sâu, độ IV sâu dưới lớp cân, độ IV, độ V, độ VI, độ VII.
Có nhiều cách tính diện tích bỏng, trong thực tế lâm sàng, để dễ nhớ, dễ tính, thường kết hợp các cách sau:
- Phương pháp con số 9: đầu mặt cổ 9%, 1 chi trên 9%, ngực bụng 18%, lưng 18%, 1 chi dưới 18%, bộ phận sinh dục và tầng sinh môn 1%.
- Phương pháp dùng bàn tay ướm (bàn tay người bị bỏng): tương ứng với 1% hoặc 1,25% diện tích cơ thể người đó.
- Phương pháp tính theo con số 1, 3, 6, 9, 18: diện tích khoảng 1%: gan bàn tay (hoặc mu), cổ, gáy, tầng sinh môn - sinh dục ngoài; diện tích khoảng 3%: bàn chân, da mặt, da đầu, cẳng tay, cánh tay, mông (một); diện tích khoảng 6%: cẳng chân, 2 mông; diện tích khoảng 9%: đùi, chi trên; diện tích khoảng 18%: chi dưới, lưng - mông, ngực - bụng.
Xử trí:
- Khi bị bỏng, cần tìm mọi cách để sớm loại trừ tác nhân gây bỏng (dập lửa, cắt cầu dao điện...). Ngay sau khi bị bỏng, ngâm vùng ngay vào nước lạnh (16-20oC hoặc dưới vòi nước chảy từ 20-30'. Nếu chậm ngâm lạnh, sẽ ít tác dụng. Nếu bỏng do hóa chất thì phải rửa các hóa chất bằng nước và chất trung hòa. Bǎng ép vừa phải các vết thương bỏng để hạn chế phù nề, thoát dịch huyết tương. Cho uống nước chè nóng, nước đường, Oresol..., thuốc giảm đau. ủ ấm nếu trời rét. Vận chuyển nhẹ nhàng, tránh va chạm gây thêm đau.
- Đối với bỏng mắt, cần xử trí kịp thời để bảo vệ mắt: rửa mắt nhiều lần bằng nước lạnh sạch, vô khuẩn và gửi đến chuyên khoa mắt.
- Cần chẩn đoán sớm diện bỏng và độ sâu của bỏng để xử trí phù hợp. Có thể dùng chỉ số Frank để tiên lượng bỏng: cứ 1% diện bỏng nông là 1 đơn vị, 1% diện bỏng sâu là 3 đơn vị. Khi chỉ số Frank từ 30-70 là sốc nhẹ, từ 70-100: sốc vừa, trên 110: sốc nặng và rất nặng. Đối với trẻ em và người già dù diện bỏng không lớn (<10%>
- Điều trị sốc bỏng ở bệnh viện cơ sở cần tiến hành ở buồng hồi sức cấp cứu. Phục hồi kịp thời và đủ khối lượng máu lưu hành hữu hiệu bằng cách truyền dịch theo đường tĩnh mạch (dịch keo, dịch điện giải, huyết thanh ngọt đẳng trương). Có thể dùng cách tính: dịch mặn đẳng trương 1ml x kg thể trọng x diện bỏng %; dịch keo 1ml x kg thể trọng x thể trọng x diện bỏng % và cộng với 2000ml dịch glucose 5%.
Cách tính thuận lợi cho ứng dụng lâm sàng: trong 24 giờ đầu lượng dich truyền chữa sốc bỏng không quá 10% thể trọng. Liều truyền trong 8 giờ đầu từ 1/2-1/3 liều, 16 giờ sau: 1/3-1/2 liều. Trong ngày thứ 2 và thứ 3 (nếu còn sốc), lượng dịch truyền chữa sốc bỏng không quá 5% thể trọng bệnh nhân (cho mỗi ngày).
- Nếu vô niệu, dùng thuốc lợi niệu lasix, manitol, nếu bị toan chuyển hóa, dùng dung dịch kiềm natri bicarbonat.
Sau khi thoát sốc, điều trị toàn thân, chống nhiễm độc bỏng cấp, dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn tại vết bỏng và toàn thân, nâng cao sức chống đỡ của cơ thể bằng truyền máu, dùng kháng sinh, nuôi dưỡng, dự phòng và điều trị các biến chứng.
- Tại vết bỏng: bỏng nông: dùng thuốc tạo màng (cao vỏ xoan trà, lá sim, sến, tràm, củ nâu...) sau khi làm vô khuẩn. Nếu bỏng sâu, từ tuần thứ 2 dùng thuốc rụng hoại tử, dung dịch kháng khuẩn, khi có mô hạt mổ ghép da các loại, dùng thêm bǎng sinh học, da nhân tạo nếu bỏng sâu, diện rộng. Với bỏng sâu, diện không lớn mà trạng thái cơ thể bệnh nhân tốt, có thể mổ cắt bỏ hoại tử và ghép da sớm ở các cơ sở chuyên khoa.
- Với các di chứng bỏng (sẹo xấu, sẹo dính, sẹo lồi, sẹo co kéo, loét lâu liền...) cần được điều trị sớm bằng phẫu thuật tạo hình để phục hồi chức nǎng và thẩm mỹ. Các sẹo bỏng nứt nẻ, loét nhiễm khuẩn kéo dài cần được mổ ghép da để tránh bị ung thư da trên nền sẹo bỏng.
1/ TRUYỀN DỊCH BẰNG ĐƯỜNG TĨNH MẠCH:
- sự tăng bài niệu thẩm thấu (diurèse osmotique) dẫn đến mất nước quan trọng mặc dầu bệnh nhân rất khát nước.
- dung lượng máu bị mất (pertes volémiques) được đánh giá bằng 10-15% trọng lượng cơ thể và dung dịch muối sinh lý (solution salé physiologique) là dịch truyền được lựa chọn
- trường hợp giảm dung lượng máu (hypovolémie) quan trọng, có thể truyền colloides lúc khởi đầu để tái lập nhanh chóng dung lượng máu (volémie) mà không gây phù quan trọng.
SƠ ĐỒ TRUYỀN DỊCH CƠ BẢN
Một Sơ đồ cơ bản quy định truyền 4L dung dịch muối (0,9% NaCl) trong vòng 12 giờ theo cách sau đây:
1L trong 1 giờ
1L trong 2 giờ
1L trong 3 giờ
1L trong 6 giờ
(dĩ nhiên là cần phải thích ứng tùy theo tình trạng huyết động học của bệnh nhân)
- trường hợp tăng natri-huyết ( hypernatrémie ) (Na > 145 mEq/L), tiêm truyền dung dịch muối có thể làm nặng thêm tình trạng tăng natri-huyết, còn dung dịch glucose thì không nên sử dụng: trong trường hợp này có thể sử dụng dung dịch muối 0,45% (cho chảy đồng thời một dung dịch muối sinh lý và một dung dịch nước vô trùng (solution d'eau stérile)
- khi glucose-huyết giảm xuống dưới 250 mg/dl, truyền glucose 5% (vừa tiếp tục tiêm truyền insuline).
- Bổ sung KCL: Thường kali huyết (hypokaliémie) bị giảm; nguyên nhân là do tăng bài niệu thẩm thấu (diurèse osmotique) gây nên thất thoát một số lượng quan trọng K bằng đường tiểu. Tuy nhiên vào giai đoạn khởi đầu của bệnh, nồng độ K trong máu có thể bình thường bởi vì sự thiếu insuline, tăng tính thẩm thấu ( hyperosmolarité) và sự nhiễm acid (acidose) gây nên sự di chuyển K ra khỏi các tế bào. Sự tiêm truyền insuline và sự điều chỉnh sự nhiễm acid sau đó làm cho K vào trở lại các tế bào với số lượng quan trọng. Vậy cần phải sớm bổ sung K và theo dõi nồng độ kali huyết.
SƠ ĐỒ TRUYỀN KCL
- Có thể bắt đầu truyền 20mEq/L trong khi chờ đợi những kết quả xét nghiệm đầu tiên.
- > 6 mEq/L : không cần bổ sung
5-6 mEq/L : 10 mEq/h
4-5 mEq/L : 20 mEq/h
3-4 mEq/L : 30 mEq/h
<>
- Hypophosphatémie thường hiện diện vì vậy thường cần tiêm truyền phosphate de potassium. Giảm phosphore (hypophosphorémie) thường xảy ra trong những tình trạng này và chủ yếu là do mất phosphore trong nước tiểu. Tiêm truyền phosphate de K là cần thiết để tránh hypophosphorémie nghiêm trọng : 40-60 mEq phosphate de K sau khi đã điều trị ổn định giai đoạn sơ khởi.
- Không có bằng cớ về tính hiệu quả của bicarbonate. Chứng acid huyết (acidémie) sẽ được điều chỉnh bởi truyền dịch và insuline.Tuy nhiên có người cho bicarbonate trong trường hợp pH rất thấp (<7,1)>
2/ INSULINOTHERAPIE:
- các liều lượng insuline không nhất thiết phải rất quan trọng nhưng chủ yếu phải được duy trì trong thời gian.
- có thể cho insuline dưới dạng tiêm truyền liên tục (perfusion continue).
- một phương cách tiện lợi là pha chế thành một dung dịch rồi truyền bằng bơm tiêm điện (seringue électrique).
- trộn 50 U Actrapid trong 50ml dụng dịch để có một dung dịch 1U/ml.
- bắt đầu truyền dụng dịch với lưu lượng bằng 1/100 của glycémie. Ví dụ nếu glycémie = 550mg/dl , bắt đầu với lưu lượng 5,5 U/h.
- khi glycémie hạ xuống gần với trị số bình thường, ta có thể áp dụng những trị số theo bảng sau đây :
THÍCH NGHI POMPE A L'INSULINE (1U/ml) VỚI GLYCEMIE CỦA BỆNH NHÂN
GLYCEMIE THÁI ĐỘ ĐIỀU TRỊ
<80mg/dl>
- truyền glucose hypertonique
JEAN-LOUIS VINCENT, Chef du Service de soins intensifs Hopital Erasme, Bruxelles MANUEL DE REANIMATION, SOINS INTENSIFS ET MEDECINE D'URGENCE |
(Theo BS NGUYỄN VĂN THỊNH)
EMERGENCY MEDICINE SECRETS |
(Theo BS NGUYỄN VĂN THỊNH)
Cấp Cứu Nội Khoa Số 4 - NGHẼN MẠCH PHỐI (PULMONARY EMBOLISM) 1/ TỶ LỆ TỬ VONG CỦA NGHẼN MẠCH PHỔI Mỗi năm ở Hoa Kỳ có hơn 600.000 người bị nghẽn mạch phổi, dẫn đến trên 100.000-200.000 trường hợp tử vong. 30% trường hợp được chẩn đoán trước khi chết.
2/ NGHẼN MẠCH PHỐI XUẤT PHÁT TỪ ĐÂU? |
- EMERGENCY MEDICINE SECRETS - CRITICAL CARE SECRETS |
(Theo BS NGUYỄN VĂN THỊNH)