Hiển thị các bài đăng có nhãn Y Học Phổ Thông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Y Học Phổ Thông. Hiển thị tất cả bài đăng

Bệnh hen suyễn

Hen suyễn là căn bệnh mãn tính hàng đầu ở trẻ em và không ít khi các bậc phụ huynh rất lúng túng khi trẻ phát bệnh. Chính vì vậy để giúp cho cha mẹ có cách chăm sóc con tốt nhất, Sức Sống Mới đến phim trường bác sỹ Trần Quỳnh Hương, công tác tại khoa Hô Hấp 2 , bệnh viện Nhi Đồng 2, cung cấp một số thông tin cần thiết cho quý vị khán giả.

CÂU HỎI:
Được biết sơ sơ hen suyễn làm bệnh nhân khó thở, có những trường hợp nặng là không thở được nữa, nhưng cụ thể là như thế nào thì cần nhờ bác sỹ giải thích rõ hơn?

BÁC SỸ:
Quá trình thở là hít không khí có chứa nhiều oxy vào trong cơ thể và huy động khí thải thán khí (dioxyt carbon) tống ra khỏi cơ thể. Không khí vào trong cơ thể qua khí quản. Khí quản chi ra 2 phế quản gốc dẫn vào 2 phổi.

Trong phổi 2 phế quản gốc chia ra nhiều phế quản nhỏ, rồi đến các tiểu phế quản. Các tiểu phế quản dẫn đến các túi không khí gọi là các phế nang, ở đó có trao đổi oxy và thán khí.

Hen là tình trạng các phế quản nhỏ bị hẹp do viêm nhiễm mãn tính khi các phế quản nhỏ bị hẹp, không khí qua đó khó khăn do:

. Co thắt của các cơ ở thành phế quản.

. Sưng và phù nề lốp niêm mạc của phế quản.

. Tiết nhiều chất nhầy vào trong lòng các phế quản.

. Các đường thở trở thành dễ bị kích thích quá mức và đáp ứng quá mức với các yếu tố gây khởi phát cơn hen.

Kết quả dẫn đến tình trạng khó thở rất nguy hiểm, có trường hợp nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời có thể tử vong.

CÂU HỎI:
Đúng là khi không thở được thì quá nguy hiểm, vậy nguyên nhân của căn bệnh này do đâu thưa bác sỹ?

BÁC SỸ:
Nhiều người sinh ra đã có cơ địa dễ bị hen. Thường trong gia đình có người thân cũng bị hen, chàm, mày đay, viêm mũi dị ứng… Ở người này, hen gây ra do dị ứng với bọ mạt, với bụi nhà, ở một số người khác lại dị ứng với phấn hoa, theo thời tiết.

Hen cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với một vài loại hóa chất (thí dụ SO2, NH3 hoặc một số chất khác trong môi trường sản xuất (bột mì, sợi bông…). Ngoài ra nhiễm virút, nhất là virut hộp bào hô hấp (ispiratory Syncitral virus) cũng thường là nguyên nhân gây ra hen ở trẻ em, nhất là ở các cháu trong độ tuổi còn bú mẹ. Khi người mẹ đang mang thai lại hút thuốc lá, đứa trẻ sinh ra cũng tăng nguy cơ bị hen.

CÂU HỎI:
Dấu hiệu ho và khò khè kéo dài ở trẻ có phải là dấu hiệu của bệnh hen suyễn không, thưa bác sỹ?

BÁC SỸ:
Việc chẩn đoán căn bệnh này cũng không đơn giản vì triệu chứng ho, khò khè ở trẻ khá giống với một số bệnh về đường hô hấp khác như viêm phế quản, viêm tiểu phế quản hay viêm phế quản dạng khò khè…, nếu không chẩn đoán đúng bệnh sẽ dẫn đến tình trạng cho trẻ uống kháng sinh chống viêm, vì thế trẻ bị tái phát khi hết thuốc.

Để chẩn đoán bệnh hen suyễn cần chú ý những dấu hiệu sau ở trẻ:

1. Có tiếng rít hay tiếng như húyt sáo khi thở ra hay những đợt thở rít tái đi tái lại.

2. Bị ho, đặc biệt về đêm và gần sáng.

3. Đêm ngủ bị thức giấc vì hay khò khè, khó thở.

4. Bị ho hay khò khè sau khi chạy giỡn, vận động nhiều.

5. Có vấn đề về hô hấp vào mùa nào đó nhất định trong năm.

6. Bị ho, thở rít hay khó thở, nặng ngực khi gặp tác nhân kích thích như lông chó, lông mèo, các hóa chất dạng xịt, bụi khói, khói thuốc lá, xúc động mạnh, khóc, cười quá mức, thay đổi thời tiết, các dạng thuốc…

7. Bị cảm nhập vào phổi tái đi tái lại hoặckéo dài hơn 10 ngày mới hết. Càng nên nghĩ đến bệnh suyễn khi gia đình hoặc bản thân trẻ có người tâhn bị bệnh có cơ địa dị ứng (chàm, mày đay, lác sữa…)

8. Nếu trẻ ngoại trừ chứng ho đi tái lại, còn lại đều mạnh khỏe bình thường, cũng nên nghĩ đến bệnh suyễn. Ngoài ra cũng có dạng suyễn không rõ ràng như sổ mũi, tái đi tái lại hoặc chỉ có tằng hắng.

CÂU HỎI:
Khi đã xác định được trẻ bị hen suyễn thì ta có cách điều trị ra sao thưa bác sỹ?

BÁC SỸ:
Trước tiên cần đưa trẻ đi cấp cứu khi: Thuốc cắt cơn không hiệu quả, hoặc hiệu quả kéo dài không lâu, trẻ vẫn thở nhanh và khó khăn, hoặc có các triệu chứng như nói không nổi, môi và móng tay hoặc chân tím tái; cánh mũi phập phồng, co kéo hõm ức, hõm trên xương đòn, hõm trên các xương sườn… Ngoài ra hen, suyễn là một dạng bệnh mãn tính, tuy chưa thể trị dứt hẳn được, nhưng hoàn tòan có thể kiểm sóat tốt trong hầu hết các trường hợp nếu có sự hợp tác tốt giữa thầy thuốc và người bệnh.

Để kiểm soát thành công phụ huynh cần:

- Hiểu được kế hoạch hành động về hen, suyễn. Bất cứ một nghi ngờ thắc mắc gì thì đặt ra với bác sĩ của con bạn.

- Dùng thuốc đều đặn như toa thuốc đã hướng dẫn. Bố mẹ bệnh nhân phải theo dõi sát sao việc sử dụng thuốc: đúng thuốc, đúng liều.

- Loại bỏ các yếu tố gây hen, tạo một môi trường sống không ô nhiễm nhất là khói thuốc lá do nghiện ngập hay hút thuốc thụ động.

- Định kỳ đến khám Bác sĩ để đánh giá lại bệnh, có thể tham gia Câu lạc bộ người hen, suyễn, các phòng quản lý bệnh nhân hen suyễn để được hướng dẫn, chăm sóc và nâng cao các kiến thức về hen suyễn, để sử dụng tốt một số công cụ hỗ trợ như máy đo phế dung, dụng cụ đo lưu lượng đỉnh. Tốt nhất là nên đến khám định kỳ, thầy thuốc vẫn chăm sóc con bạn, đã biết rõ độ nặng nhẹ của bệnh, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, môi trường sống của bạn.

- Bạn có thể đến thăm, khám bệnh sớm hơn dự định nếu con bạn có triệu chứng không đáp ứng với sự tăng liều thuốc như kế hoạch hành động bác sỹ đã chỉ dẫn.

- Bạn có thể có lời khuyên đúng đắn về bệnh từ bác sĩ chuyên khoa chứ không phải từ bạn bè, thân thuộc hay hàng xóm. Hen, suyễn ở mỗi người khác nhau. Lời khuyên thích hợp với người này không nhất thiết có ích cho người khác.

CÂU HỎI:
Bác sỹ còn có lời khuyên nào về chế độ ăn uống để tốt cho căn bệnh này không ạ?

BÁC SỸ:
Hen suyễn có liên quan đến các yếu tố gây dị ứng ở môi trường như khói, bụi, sơn, phấn hoa, thức ăn... Do đó, ngoài việc phòng tránh những yếu tố có thể gây dị ứng, luyện tập để nâng cao ngưỡng chịu đựng của cơ thể thì chế độ ăn uống cũng có ý nghĩa rất lớn đối với việc kiểm soát bệnh.

Nên kiêng cữ những thức ăn có thể gây dị ứng đối với cơ địa riêng của mỗi người. Cần ăn nhiều thức ăn có chứa vitamin C, magnesium và những acid béo Omega 3. Người ta nhận thấy việc thiếu vitamin C phối hợp với điều kiện không khí ô nhiểm làm gia tăng những trường hợp bệnh suyển, đặc biệt là đối với trẻ em.

Một số nghiên cứu thấy ở những người bệnh suyển, lượng vitamin C trong cơ thể thường ít hơn 50% so với những người bình thường. Vitamin C tự nhiên có nhiều trong các loại rau quả như cà chua, cà rốt và rau xanh như rau dền, rau diếp …

Rau quả xanh cũng có nhiều magnesium. Magnesium có tính năng cải thiện hoạt động của phổi qua tác dụng làm giãn các lớp cơ bao quanh khí quản.

Ngoài ra các nhà khoa học cũng khuyên người bệnh nên ăn nhiều thực phẩm có chứa những acid béo Omega 3 như các loại cá, các loại quả hạch, mè, hạt hướng dương, dầu cá thu, dầu lanh...

Ngoài việc tăng cường sức miển dịch và một số lợi ích khác, những loại acid béo Omega 3 là một yếu tố chống viêm tự nhiên rất hữu ích cho những người có cơ địa dị ứng để ngăn chặn cơn hen và cải thiện chức năng hô hấp./

Tài liệu về bệnh hen

Tác nhân gây bệnh

theo http://thuviencongdong.org
Read On 0 nhận xét

Cảm lạnh

Cảm lạnh là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên. Có hơn 200 virus khác nhau có thể gây ra cảm lạnh với những triệu chứng khác nhau.

Dấu hiệu và triệu chứng

Triệu chứng thường xuất hiện khoảng 1 – 3 ngày sau khi tiếp xúc với virus và bao gồm:

  • Ngạt mũi hoặc chảy nước mũi
  • Họng ngứa và đau
  • Ho
  • Đau người hoặc đau đầu nhẹ
  • Hắt hơi
  • Chảy nước mắt
  • Sốt nhẹ
  • Mệt mỏi nhẹ.

Nguyên nhân

  • Mặc dù có hơn 200 virus có thể gây ra các triệu chứng cảm lạnh, song rhinovirus là thủ phạm hay gặp nhất và rất dễ lây..

Điều trị

Không có thuốc chữa khỏi cảm lạnh. Kháng sinh không có tác dụng chống lại virus gây bệnh. Các thuốc không kê đơn dùng đề chữa cảm lạnh không chữa khỏi bệnh cũng như không làm cho bệnh nhanh khỏi hơn. Dưới đây là những ưu và nhược điểm của một số loại thuốc hay dùng để điều trị cảm lạnh.

  • Thuốc giảm đau. Các thuốc giảm đau không kê đơn như acetaminophen thường được sử dụng để điều trị sốt và đau đầu khi bị cảm lạnh. Cần nhớ rằng acetaminophencó thể gây tổn thương gan, nhất là khi dùng ở liều cao kéo dài. Không dùng aspirin cho trẻ em vì thuốc có thể gây ra hội chứng Reye — Một bệnh hiễm gặp nhưng có thể gây tử vong.
  • Thuốc xịt mũi để giảm xung huyết mũi. Những thuốc này không nên dùng kéo dài vì có thể gây viêm niêm mạc mũi mạn tính.
  • Xi rô ho. Các loại xi rô ho không có tác dụng điều trị nguyên nhân gây ho trong cảm lạnh. Một số loại chứa những thành phần làm giảm ho, nhưng với lượng quá ít nên không đủ tác dụng hoặc có thể gây hại cho trẻ. Trung tâm phòng chống bệnh dịch Mỹ (CDC) khuyên không nên dùng xi rô ho cho trẻ dưới 2 tuổi. Ho do cảm lạnh thườgn kéo dài ít nhất là 2 – 3 tuần. Nếu ho kéo dài lâu hơn, cần cho trẻ đi khám bác sĩ.

Các biện pháp tự chăm sóc khi bị cảm lạnh gồm:

  • Uống nhiều nước.
  • Nghỉ ngơi đầy đủ.
  • Giữ cho phòng ở luôn ấm và ẩm
  • Súc họng nhiều lần trong ngày bằng nước muối ấm hoặc uống nước chanh ấm pha với mật ong để làm dịu chỗ họng bị viêm và giảm ho
  • Nhỏ mũi bằng nước muối sinh lý để làm giảm xung huyết mũi.

Phòng bệnh

  • Rửa tay thường xuyên.
  • Vệ sinh nhà cửa sạch sẽ thông thoáng, nhất là khi trong gia đình có người bị cảm lạnh.
  • Vứt bỏ khăn giấy ngay sau khi dùng.
  • Không dùng chung bát đũa, vật dụng cá nhân với người khác.
  • Tránh tiếp xúc lâu với người bị cảm lạnh.
theo http://www.cimsi.org.vn

Read On 0 nhận xét

Cúm

Cúm là bệnh do virus xảy ra ở đường hô hấp, gồm mũi, họng, phế quản và phổi. Bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ ai, nhưng trẻ nhỏ, người già, người bị bệnh mạn tính và suy giảm miễn dịch đặc biệt dễ mắc.

Triệu chứng

Bệnh cúm thường có khởi đầu giống như cảm lạnh với các triệu chứng chảy nước mũi, thờ khò khè và đau họng, song thường có khởi phát đột ngột và nặng lên nhanh chóng. Các dấu hiệu và triệu chứng thường gặp khác gồm:

  • Sốt, rét run và toát mồ hôi
  • Đau đầu
  • Ho khan
  • Đau nhức cơ, nhất là vùng lưng, cánh tay và chân
  • Mệt mỏi nhiều
  • Ngạt mũi
  • Chán ăn
  • Tiêu chảy hoặc nôn ở trẻ em

Nguyên nhân

Có 3 chủng virus gây bệnh cúm là cúm A, B, và C. Virus cúm lây lan qua những giọt dịch tiết bắn vào trong không khí khi người bệnh ho và hắt hơi. Cúm týp A là nguyên nhân gây nên nhiều đại dịch nguy hiểm xảy ra 10 đến 40 năm một lần. Cúm týp B gây ra những ổ dịch nhỏ khu trú hơn. Cả hai týp A và B đều gây bệnh cúm theo mùa lưu hành hằng năm. Cúm týp C chưa bao giờ gây ra đại dịch lớn.

Điều trị

Thông thường bệnh nhân chỉ cần nghỉ ngơi tại giường và uống nhiều nước. Nhưng trong một số trường hợp bác sĩ có thể kê đơn những thuốc chống virus như oseltamivir (Tamiflu) hay zanamivir (Relenza).

Những thuốc này điều trị cả cúm týp A và B, có tác dụng bất hoạt một enzym cần thiết để virus phát triển và lây lan. Nếu được dùng sớm thuốc có thể rút ngắn thời gian có triệu chứng. Cả hai thuốc đều có thể gây những tác dụng phụ như kém minh mẫn, buồn nôn, nôn, chán ăn hoặc khó thở, và có thể dẫn đến sự hình thành virus kháng thuốc..

Phòng bệnh

  • Tiêm vaccin phòng cúm hằng năm. Tốt nhất nên tiêm vào tháng 10 hoặc tháng 11 để cơ thể tạo được kháng thể trước khi mùa cúm bắt đầu. Vaccin không có tác dụng bảo vệ hoàn toàn nhưng có thể làm giảm được nguy cơ và mức độ nặng của bệnh.
  • Rửa tay sạch. Đây là cách tốt nhất để phòng ngừa nhiều bệnh nhiễm trùng. Kì cọ kỹ bàn tay trong ít nhất 15 giây, tráng kỹ và dùng khăn giấy để tắt vòi nước. Hoặc dùng gel rửa tay chứa ít nhất 60% cồn.
  • Ăn đúng, ngủ đủ. Ăn ngủ kém sẽ làm giảm miễn dịch và khiến cơ thể dễ bị bệnh. Chế độ ăn cần cân đối, chú trọng rau quả, ngũ cốc và thịt nạc với lượng vừa phải. Người lớn cần ngủ 7 – 8 tiếng ban đêm. Trẻ lớn và trẻ vị thành niên cần ngủ nhiều hơn, chừng 9 – 10 tiếng.
  • Tập luyện thường xuyên có tác dụng tăng cường miễn dịch, nhờ đó khi bị bệnh triệu chứng sẽ nhẹ hơn và mau khỏi hơn.
  • Tránh nơi đông người khi đang có dịch cúm. Bệnh cúm lây lan dễ dàng ở những nơi tập trung đông người như nhà trẻ, trường học, công sở, nàh hát, rạp chiếu phim v.v… Tránh những nơi đông người khi đang có dịch cúm sẽ làm giảm nguy cơ lây bệnh.
theo http://www.cimsi.org.vn


Read On 0 nhận xét

Bệnh chốc lở

Chốc lở là một bệnh nhiễm trùng da chủ yếu xảy ra ở trẻ em. Bệnh có biểu hiện là những nốt mụn đỏ, sau đó vỡ ra, rỉ nước trong một vài ngày và đóng vảy, thường xuất hiện ở vùng mặt, nhất là quanh mũi và miệng. Bệnh dễ lây và thường có nguyên nhân do vi khuẩn.

Dấu hiệu và triệu chứng

- Chốc lở truyền nhiễm: là thể bệnh hay gặp nhất, bắt đầu là một nốt mụn đỏ trên mặt, thường quanh mũi và miệng. Nốt mụn nhanh chóng vỡ ra, chảy dịch hoặc mủ và đóng vảy màu nâu. Cuối cùng vảy sẽ bong ra, để lại một vết đỏ mà không gây sẹo. Nốt mụn có thể ngứa những không đau. Trẻ không sốt nhưng thường bị sưng hạch ở vùng bị bệnh. Và do rất dễ lây nên chỉ cần đụng chạm hoặc gãi vào vết mụn cũng làm cho bệnh lây sang những nơi khác.

- Chốc lở dạng phỏng: chủ yếu xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi, gây ra những nốt phỏng nước chứa đầy dịch và không đau, thường ở thân mình, cánh tay và cẳng chân. Da xung quanh nốt phỏng đỏ và ngứa nhưng không loét. Nốt phỏng sẽ vỡ và đóng vảy màu vàng và có thể lâu liền hơn các dạng chốc lở khác.

- Mụn mủ: là thể nặng nhất trong đó nhiễm trùng thâm nhập sâu vào lớp bì. Các dấu hiệu và triệu chứng gồm:

  • Những nốt mụn đau chứa đầy dịch hoặc mủ biến thành vết loét sâu, thường ở cẳng chân và bàn chân.
  • Vảy dày, cứng màu vàng xám trên vết mụn.
  • Sưng hạch ở vùng bị bệnh
  • Vết loét liền để lại sẹo.

Nguyên nhân

Hai loại vi khuẩn hay gặp nhất gây chốc lở là tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) và liên cầu (Streptococcus pyogenes). Cả hai đều sống trên da và khi xâm nhập qua vết trầy xước hoặc các vết thương khác sẽ gây bệnh.

Xét nghiệm và chẩn đoán

Chần đoán thường dựa trên quan sát nốt mụn trên da trẻ. Đôi khi bệnh phẩm lấy ở nốt mụn sẽ được nuôi cấy để phát hiện sự có mặt của vi khuẩn.

Điều trị

Điều trị tuỳ thuộc và tuổi của trẻ, thể bệnh và mức độ nặng, bao gồm:

  • Vệ sinh. Sát trùng và giữ cho da trẻ sạch sẽ có thể giúp cho những nốt mụn nhỏ tự liền.
  • Kháng sinh bôi tại chỗ như mỡ mupirocin (Bactroban)
  • Kháng sinh uống. Loại kháng sinh cụ thể sẽ tuỳ thuộc và mức độ nặng của bệnh, tình trạng dị ứng hoặc những bệnh khác ở trẻ.

Phòng bệnh

Giữ cho da trẻ sạch sẽ là cách tốt nhất để tránh nhiễm trùng. Xử lý đúng cách các vết trầy xước, vết đốt của côn trùng và các vết thương khác bằng cách rửa sạch vùng bị thương để tránh nhiễm trùng. Nếu trong gia đình có người bị chốc lở, cần áp dụng các biện pháp sau để tránh lây bệnh:

  • Nhẹ nhàng rửa sạch vùng bị bệnh bằng xà phòng nhẹ dưới vòi nước chảy và sau đó băng lại.
  • Giặt quần áo, khăn và đồ vải của trẻ hằng ngày và không để dùng chung với người khác trong nhà.
  • Mang găng khi bôi thuốc và sau đó rửa tay thật kỹ.
  • Cắt ngắn mógn tay cho trẻ để trẻ khỏi cào gãi
  • Khuyến khích trẻ rửa tay thường xuyên
  • Cho trẻ nghỉ ở nhà đến khi không còn lây bệnh.
theo http://www.cimsi.org.vn


Read On 0 nhận xét

Món ăn dành cho người viêm da nhiệt

Xem hình
Lá sen.

Thông thường do khí hậu nóng bức gây nên chứng viêm da mùa hè, nhưng có khi do chế độ ăn uống không đúng cách cũng là một nguyên nhân sinh bệnh. Do đó để phòng ngừa và góp phần trị liệu chứng bệnh này, đông y nhận thấy chúng ta cần biết cách chọn lựa các thực phẩm thích hợp có tác dụng về lĩnh vực này, nghĩa là cần dùng các thức ăn có tác dụng khử thử, lợi thấp, thanh hỏa, sinh tân, như các loại rau cải dầu, rau cần, rau chân vịt, mướp đắng, dưa chuột, bí đao, ngó sen tươi, măng, giá đỗ, ngân nhĩ, hạt sen, nấm, đậu phụ, sữa đậu nành, tảo đỏ, rau câu...

Thức ăn động vật như thịt thỏ, thịt vịt, cá mực... đều là các loại có tác dụng thanh nhiệt sinh tân, mọi người nhất là người bệnh nên ăn thường xuyên trong các ngày hè. Tuy nhiên cũng có những thức ăn cay nóng cần giảm ăn hoặc tốt nhất là kiêng trong mùa hè như rượu, thịt chó, thịt gà, cừu, tôm, rau cải, lá hẹ... hoặc những thức ăn có tác dụng kích thích như ớt, mù tạt, cà phê, trà đặc, sôcôla... có tác dụng kích thích da rất mạnh nên dễ gây viêm hay tăng bệnh viêm da, làm cho ngứa ngáy nhiều. Ngoài ra các đồ như cá, cua, lươn, lạp xường, cà chua, đồ hộp... nếu dùng nhiều cũng có thể xuất hiện dị ứng da và làm bệnh nặng thêm, nên cần lưu ý ăn hạn chế.

Sau đây là vài món ăn thuốc có lợi cho việc phòng, chữa bệnh viêm da.

Cháo lá sen: Lá sen nửa tàu, cho cùng gạo nấu thành cháo ăn trong ngày. Cháo lá sen có tác dụng thanh nhiệt, mát huyết, bổ âm, sinh tân, tiêu viêm, hết ngứa.

Trà đậu xanh: Đậu xanh 100g, ý dĩ nhân tươi 10g, sắc lên và cho thêm ít chè xanh vào nấu lấy nước uống trong ngày sẽ làm bệnh giảm, bớt ngứa.

Chè hồng táo: Hồng táo 20g quả, ngân nhĩ 10g, trúc diệp 5g, đường phèn vừa đủ. Cho tất cả vào nấu thành chè, ăn ngày một lần. Chè hồng táo làm mát huyết, sinh tân dịch, hết ngứa ngáy.

Trứng chim cút, mật ong: Trứng chim cút 2 quả, cho vào bát đánh tan, đổ mật ong nấu cùng. Ngày ăn một lần vào lúc sáng sớm khi bụng đói. Món ăn này có tác dụng tiêu viêm, chống dị ứng, làm nhuận, bổ da. Rất thích hợp dùng cho trẻ nhỏ.

BS. Hoàng Xuân Đại


Read On 0 nhận xét

Khi thảm họa bỏng hàng loạt xảy ra, xử lý như thế nào?

Bài viết này của Haberal M. (2006), “Guideline for dealing with disasters involving large numbers of intensive burns”, Burns, December, Vol.32, pp. 933 – 939.đăng trên tạp chí Bỏng thế giới. Nội dung bài viết này giới thiệu hướng dẫn của Hội Bỏng Thế giới về xử lý thảm hoạ bỏng.

Mỗi quốc gia nên/cần phải có kế hoạch riêng để đối phó với thảm hoạ. Hướng dẫn này đưa ra các khái niệm cơ bản nhằm trang bị cho nhân viên y tế cũng như các quan chức chính phủ hoạt động trong lĩnh vực đáp ứng thảm hoạ.

Chăm sóc bệnh nhân bỏng, bao gồm cả các trường hợp phức tạp do các chấn thương khác gây nên đòi hỏi phải có các chuyên gia được đào tạo cơ bản cũng như có sự cung cấp đầy đủ các trang thiết bị. Việc cung cấp đủ trang thiết bị không phải lúc nào cũng thực hiện được, nhiều khi không thể thực hiện được ở các mức độ và ở các cơ sở y tế khác nhau.

Tuy nhiên, sẽ là rất quan trọng nếu có sự chuẩn bị chu đáo một số lượng tối thiểu các trang thiết bị và thuốc men ở mức có thể. Cần có sự chuẩn bị cẩn thận các cơ số dự trữ đồng thời phải tránh được sự lãng phí. Mỗi địa phương của quốc gia cần xác định cụ thể nơi lưu trữ các cơ số này để dễ dàng cung cấp và hoạt động khi cần.

Những tiến bộ mới hiện nay cho phép có thể cứu sống và tái hoà nhập xã hội những bệnh nhân bỏng nặng và rất nặng. Điều này cần được tiến hành và phát triển ngay cả khi xảy ra thảm hoạ với nhiều nạn nhân bỏng.

Theo định nghĩa, thảm hoạ là tình trạng ngoại lệ trong khi điều trị bỏng cần theo những chuẩn hoá nhưng nếu có sự chuẩn bị tốt thì việc điều trị bỏng có thể tiến hành tốt với ngoại lệ lẫn chuẩn hoá.

Hai vấn đề cơ bản cho lập kế hoạch chống thảm hoạ là:
1. Có kế hoạch cung cấp đủ các trang thiết bị y tế, thuốc men để điều trị kịp thời cho bệnh nhân
2. Đảm bảo việc sử dụng hiệu quả tối đa các trang thiết bị và thuốc men này.

Phân loại các trang thiết bị y tế cần thiết cho cấp cứu và điều trị bệnh nhân bỏng trong thảm hoạ
Việc cấp cứu bước đầu và phân loại đúng nạn nhân đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến các giai đoạn điều trị tiếp theo.
Quá trình điều trị bỏng có thể phân loại thành các giai đoạn sau:
1. Sơ cứu và phân loại tổn thương bỏng
2. Phân loại và hồi sức
3. Kiểm soát nhiễm trùng – phẫu thuật (giai đoạn tái tạo)
4. Hồi phục – phục hồi chức năng

Trên cơ sở 4 giai đoạn nêu trên, các trang thiết bị cho đáp ứng với thảm hoạ có thể phân chia thành 3 loại:
- Loại A: các trang thiết bị chỉ phục vụ cho hồi sức;
- Loại B: các trang thiết bị phục vụ cho hồi sức và sau hồi sức;
- Loại C: các trang thiết bị phục vụ chỉ cho phục hồi chức năng, giải phóng co kéo

Đó là hệ thống chức năng không riêng cho cơ sở y tế nào nhưng phụ thuộc vào vị trí, khả năng cung cấp trang bị của từng bệnh viện. Ví dụ như trung tâm bỏng lớn có đầy đủ trang thiết bị để đối phó với thảm hoạ nhưng bị hỏng hệ thống điện hoặc hệ thống cung cấp nước thì chỉ có thể đảm nhận được các trang thiết bị cho loại A mà thôi. Hoặc nếu trung tâm bỏng ở cách quá xa nơi xảy ra thảm hoạ hàng trăm km thì có thể phải chẩn bị trang thiết bị cho loại B nếu như có phương tiện vận chuyển tốt như máy bay trực thăng chẳng hạn.

Trong việc đối phó với thảm hoạ bỏng, việc tăng cường nguồn nhân lực và vật lực nhất là các trang bị phục vụ cho phẫu thuật cắt hoại tử, ghép da và labo xét nghiệm, đặc biệt là cấy khuẩn có vai trò rất quan trọng trong trang thiết bị loại B.

Nếu có bệnh viện đa khoa mà chưa có chuyên khoa bỏng ở ngay gần nơi xảy ra thảm hoạ và nếu điều kiện cho phép thì nên triển khai theo dạng loại B hoặc C vì đối với nạn nhân bỏng, công tác điều trị cần được tiến hành khẩn trương, đồng bộ không nên để cho nạn nhân phải trải qua quá trình chuyển vận trong thời gian dài. Việc phối kết hợp giữa các cơ sở y tế, giữa các quốc gia có thể giúp để triển khai loại hình điều trị này nhanh hơn.

3. Dòng sơ tán nạn nhân bỏng (Flow of evacuees)
Phần này đề cập đến dòng chuyển của bệnh nhân bỏng tới các cơ sở điều trị với các loại hình trang thiết bị khác nhau. Bắt đầu từ sơ cứu và phân loại nạn nhân bỏng tại nơi thảm hoạ, tiếp đó là chuyển vận bệnh nhân tới các sơ sở điều trị phù hợp với tình trạng và mức độ tổn thương của từng bệnh nhân.
3.1. Sơ cứu và phân loại
Một trong những phần quan trọng nhất của đáp ứng thảm hoạ bỏng là tổ chức việc sơ tán nạn nhân ra khỏi vùng nguy hiểm một cách nhanh chóng và phù hợp.

Có thể có nhiều chấn thương xảy ra đối với lực lượng cứu hộ khi đang tìm cách tiếp cận và sơ cứu nạn nhân bỏng, các nhân viên y tế, nhân viên cứu hoả và những người giúp tự nguyện cần tuân thủ theo các chỉ dẫn và mệnh lệnh về sơ cứu:
+ Cẩn thận khi tìm cách đưa nạn nhân ra khỏi nơi thảm hoạ, không được kéo hoặc kéo lê nạn nhân đang bị thương
+ Nếu bị bắt lửa, tìm cách dập tắt lửa bằng dập lửa, lăn vòng tròn, dùng chăn dập lửa hoặc dội nước, tháo bỏ các đồ trang sức, quần áo cháy.
+ Nếu bị bỏng nước sôi, quần áo là nơi lưu giữ sức nhiệt do vậy nên cởi bỏ. Không được lột quần áo nạn nhân, cần cắt và lấy bỏ cẩn thận.
+ Nếu nạn nhân bất tỉnh cần khai thông đường thở, cố định cột sống nếu nghi ngờ chấn thương cột sống
+ Trấn an, động viên nạn nhân
+ Làm lạnh bề mặt vết bỏng bằng dòng nước ở nhiệt độ 8 – 250C (lý tưởng là 150C) trong vòng 30 phút hoặc bằng các tác nhân làm lạnh đặc biệt khác. Không được dùng nước đá vì có thể làm tăng độ sâu tổn thương. Theo dõi thân nhiệt để dự phòng hạ thân nhiệt ở trẻ em và bệnh nhân bỏng diện rộng.
+ Ủ ấm nạn nhân bằng chăn, mền, khăn cho đến khi nhân viên y tế đến
Sau khi hoàn thành việc sơ tán khỏi nơi thảm hoạ và sơ cứu nạn nhân, cần tập trung vào phân loại mức độ bỏng. Cũng giống như các cấp cứu khẩn cấp khác, việc phân loại mức độ bỏng cần được tiến hành ngay tại chỗ và công tác hồi sức cần được tiến hành ngay lập tức. Các bệnh nhân sau đó phải được phân loại và chuyển vận về các cơ sở điều trị phù hợp với mức độ bệnh lý càng sớm càng tốt.

Khái niệm “phân loại – Triage” có nghĩa là tìm ra các ưu tiên hàng đầu với mục đích là để xử lý kịp thời và đảm bảo an toàn tối đa cho nạn nhân, tạo ra môi trường đáp ứng phù hợp và chăm sóc nạn nhân ngay tại nơi thảm hoạ cho đến khi được chuyển vận tới các cơ sở y tế phù hợp. Trạm phân loại này đưa ra các quyết định điều trị và chăm sóc khác nhau cho các nạn nhân tuỳ thuộc và mức độ tổn thương, đồng thời nhóm phân loại còn giúp thu xếp chuyển vận hợp lý cho từng nạn nhân bỏng.

3.2. Bệnh viện tuyến A (trang bị loại A)
Trạm cấp cứu tại các lều ở khu vực thảm hoạ hoặc ở các tại tỵ nạn hoặc ở các khoa cấp cứu của các bệnh viện đa khoa ở trong hoặc gần nơi thảm hoạ xảy ra có thể trở thành các cơ sở y tế với trang bị loại A.

Vị trí của cơ sở này tốt nhất có thể tiếp cận bằng đi bộ hoặc ở tương đối gần đường bộ và càng gần nơi thảm hoạ càng tốt. Có thể có trường hợp cơ sở loại A chỉ hoạt động như là một trạm phân loại và ít xử lý trên nạn nhân, các trường hợp khác đều có khả năng cấp cứu và điều trị các trường hợp bỏng nặng và có thể kéo dài vài ngày để hết thời kỳ hồi sức bệnh nhân.

Nếu có thể, một vài cơ sở phải di chuyển, lưu động được tới gần nơi thảm hoạ một cách nhanh nhất để tiến hành cấp cứu tối khẩn cấp các chức năng sống của nạn nhân bỏng.
Tại cơ sở loại A, bệnh nhân bỏng cần được phân loại để điều trị như sau:
- Loại 1: Bỏng nhẹ
- Loại 2: Bỏng trung bình – Bệnh nhân phải điều trị chuyên khoa nhưng không cần phải hồi sức
- Loại 3: Bỏng nặng – Bệnh nhân phải được hồi sức và điều trị chuyên khoa
Tất cả các bệnh nhân tại tuyến A được phân loại, chuyển vận về tuyến B hoặc C. Tuyến A giữ lại điều trị chủ yếu là hồi sức bệnh nhân sau đó chuyển về tuyến B hoặc C nơi có trang bị và nhân lực phù hợp với điều trị chuyên khoa bỏng.

Bệnh nhân loại 3 – nặng và rất nặng: cần được các bác sỹ chuyên khoa điều trị bằng hồi sức hô hấp, hồi sức dịch thể. Tại tuyến A, công tác hồi sức chủ yếu là duy trì đường thở, thiết lập, cố định và duy trì đường truyền dịch. Cần theo dõi sát hô hấp, nếu có chỉ định thì đặt nội khí quản nhằm tránh biến chứng suy hô hấp trên đường vận chuyển. Những bệnh nhân bất tỉnh, nghi ngờ bỏng hô hấp cần được thở oxy lưu lượng cao nhằm giảm dần mức nhiễm độc CO trong máu.

Đường truyền lớn cần được thiết lập và cố định tốt tại các tĩnh mạch lớn vùng da không bỏng hoặc vùng bỏng nếu thấy cần thiết. Nếu không đặt được ven ngoại vi, cần phải đặt tĩnh mạch trung tâm hoặc bộc lộ tĩnh mạch. Sau khi thiết lập được đường truyền dịch, cần đặt sonde dẫn lưu nước tiểu, sonde dạ dày để kiểm soát và theo dõi cân bằng dịch thể.

Trong thời gian chuyển vận tới bệnh viện tuyến B, bệnh nhân cần được chăm sóc chu đáo, ủ ấm dự phòng hạ thân nhiệt. Danh sách kiểm tra các bước trong quy trình chuyển vận được thể hiện ở phụ lục A. Hồ sơ bệnh lý của bệnh nhân cần được lưu giữ và bàn giao bản sao khi chuyển vận nhằm giúp cho theo dõi bệnh nhân tốt hơn và đơn giản hơn.

Bệnh nhân bỏng loại 2 – trung bình: bao gồm cả các bệnh nhân bỏng sâu vùng mặt và bàn tay có thể được xử lý sơ bộ vết thương tại tuyến A sau đó có thể đưa đến các lều bạt của trại tỵ nạn để nghỉ ngơi, ủ ấm, ăn uống, vệ sinh trước khi được chuyển đến tuyến B hoặc C.

Bệnh nhân bỏng loại 1 – nhẹ: được xử lý vết bỏng, thay băng sau đó đưa về các trại, lều để nghỉ ngơi và điều trị tiếp theo như là bệnh nhân ngoại trú tại các bệnh viện đa khoa hoặc là các trạm y tế gần nhất.

3.3. Bệnh viện tuyến B (trang bị loại B)
Chức năng chính của tuyến này ở giai đoạn đầu sau thảm hoạ là đảm bảo công tác hồi sức bệnh nhân bỏng một cách đầy đủ và hiệu quả. Vào tuần thứ hai sau thảm hoạ, nhiệm vụ chính của trung tâm này là điều trị chuyên khoa bỏng với sự đầu tư vào chống nhiễm khuẩn, phẫu thuật và ghép da. Phần lớn bệnh nhân bỏng ở tuyến này đều được chuyển từ tuyến A đến hoặc một số từ tuyến B khác đến khi bị quá tải.

Trong tuần đầu thảm hoạ, cần tăng cường bác sỹ, điều dưỡng và các chuyên gia hồi sức bỏng nặng cho các bệnh viện tuyến B. Từ tuần thứ hai, cần tăng cường các phẫu thuật viên và bác sỹ tạo hình. Để kiểm soát được tình trạng nhiễm trùng, cần tăng cường và cung cấp đủ cho các labo xét nghiệm. Cần phải có một đội ngũ nhân viên có đủ kinh nghiệm và được đào tạo cơ bản để hỗ trợ cho vùng thảm hoạ. Hội bỏng và thảm hoạ quốc gia có thể giúp đỡ lực lượng này về huấn luyện và đào tạo.

Nếu có trung tâm bỏng ở ngay cạnh vùng xảy ra thảm hoạ, cần huy động để đảm trách như là bệnh viện tuyến B để có thể điều trị số lượng lớn bệnh nhân bỏng. Nếu trường hợp bệnh viện tuyến B quá tải, có thể bố trí chuyển bớt bệnh nhân về bệnh viện tuyến C.

3.4. Bệnh viện tuyến C
Bệnh viện tuyến này thường bố trí ở ngoài vùng thảm hoạ, bắt đầu nhận bệnh nhân từ tuần thứ hai sau thảm hoạ bỏng. Tuyến C là nơi điều trị thực thụ những bệnh nhân bỏng sâu, diện rộng đã được hồi sức thành công ở tuyến trên và đòi hỏi phải phẫu thuật cũng như phục hồi chức năng.

Bệnh viện tuyến này nhất thiết phải có trung tâm bỏng hoặc ít ra phải có bác sỹ và điều dưỡng chuyên khoa bỏng và có thể không cần phải hỗ trợ từ bên ngoài. Bệnh viện tuyến C có thể được bố trí ở nơi xa thảm hoạ, thậm chí là ở nước khác, lúc này cần có sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia, các tổ chức và giữa các hội bỏng và thảm hoạ với nhau. Đồng thời khi đã có sự hợp tác quốc tế, hệ thống chuyển vận cần có sự thống nhất, hệ thống bảo hiểm cũng cần có sự liên thông giữa các nước.

3.5. Lập kế hoạch chuyển vận bệnh nhân
Sơ đồ 1 miêu tả kế hoạch chuyển vận bệnh nhân bỏng từ vùng thảm hoạ tới các tuyến khác nhau. Trong thời kỳ hồi sức (những ngày đầu sau thảm hoạ), phần lớn sự chuyển vận là từ tuyến A đến tuyến B và một số bệnh nhân có thể được chuyển từ tuyến B đến nơi khác.

Như đã đề cập ở trên, trong phiếu chuyển vận, tất cả các số liệu về bệnh nhân cần phải được điền đầy đủ trước khi thực hiện vận chuyển. Trong vòng1 -22 tuần sau thảm hoạ, có hai vấn đề lớn về mặt tổ chức cứu chữa bệnh nhân tại các tuyến. Một là việc thiết lập và duy trì trung tâm điều trị dạng tuyến B hoặc C gần nơi thảm hoạ, hai là tổ chức chuyển vận bệnh nhân từ các vùng xa tới các cơ sở điều trị thông qua hệ thống chuyển vận đã được xác lập.

Cả hai quá trình này đòi hỏi phải có sự tham gia của các chuyên gia bỏng. Các chuyên gia bỏng, phần lớn các nhân viên y tế tăng cường và các trang thiết bị hỗ trợ cho thảm hoạ cần được bố trí tại các bệnh viện hoặc nơi tiếp nhận và điều trị bệnh nhân bỏng. Khi chuyển vận, bệnh nhân bỏng cần được đưa đến nơi điều trị bỏng thực thụ với bác sỹ chuyên khoa và có đủ trang thiết bị cần thiết.

4. Huy động nhân lực và trang bị đáp ứng với thảm hoạ bỏng hàng loạt
Phần này thảo luận về kế hoạch bổ sung cho bệnh viện về nhân lực yế và các trang thiết bị để đối phó với thảm hoạ bỏng hàng loạt. Trong đáp ứng với thảm hoạ, điều cần thiết là phải thu hẹp khoảng cách giữa khả năng sẵn có và nhu cầu lý tưởng trong điều kiện thảm hoạ xảy ra bằng sự huy động nội lực lẫn hỗ trợ từ bên ngoài.

4.1. Huy động ở tuyến A
Sự huy động ở tuyến A tuỳ thuộc và hoàn cảnh và nhiệm vụ của tuyến này được giao cũng như thời gian sẽ thực hiện ở tuyến này. Như đã đề cập ở trên, có những tuyến A làm nhiệm vụ như là trung tâm phân loại lớn và bệnh nhân chỉ lưu lại ở đây trong thời gian ngắn. Sự hợp lý thể hiện ở chỗ bố trí chuyên gia hồi sức và phẫu thuật ngoại chung ngay tại tuyến này.

Các bác sỹ chuyên khoa bỏng nên được bố trí tại tuyến B để tiếp nhận và điều trị những bệnh nhân được chuyển đến từ các trạm phân loại. Ngược lại, nếu bệnh viện tuyến A là bệnh viện đa khoa được bố trí để tiếp nhận và điều trị bệnh nhân bỏng cho đến khi kết thúc giai đoạn hồi sức, thì cần được bổ sung các chuyên gia điều trị bệnh nhân bỏng nặng có khả năng đảm nhận nhiệm vụ hồi sức bao gồm thiết lập và xác định tốc độ truyền dịch, chỉ định đặt nội khí quản, thay băng, chăm sóc vết bỏng, đắp thuốc tại chỗ, theo dõi và điều trị đến khi ổn định và chuyển vận bệnh nhân.
Phụ lục B liệt kê danh sách các trang thiết bị tối thiểu phục vụ cho công tác cấp cứu 5 bệnh nhân bỏng nặng.

Như đã đề cập ở trên, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của tuyến A là chuẩn bị mọi mặt và tổ chức hệ thống chuyển vận bệnh nhân (sau khi đã sơ cứu, phân loại) tới tuyến B hoặc tuyến C càng nhanh càng tốt.

Điều này đỏi hỏi phải có hệ thống chuyển vận rất hiệu quả. Trong tình huống có thảm hoạ, nhất thiết phải xác định được nhu cầu phải có bao nhiêu xe vận chuyển bệnh nhân và tổ chức nào, bệnh viện nào có trách nhiệm vận chuyển bệnh nhân. Nếu phải chuyển vận bệnh nhân từ các vùng xa thì tốt nhất nên huy động máy bay trực thăng

4.2. Huy động ở tuyến B
Việc bổ sung tăng cường cho tuyến B hoặc C tuỳ thuộc vào số lượng bệnh nhân phải tiếp nhận và tình trạng hiện tại của cơ sở điều trị. Các trung tâm bỏng có thể đã có sẵn các phương tiện và nhân lực nhưng cũng nên cần được bổ sung thêm các phẫu thuật viên và điều dưỡng. Các bệnh viện đa khoa chưa có khoa bỏng, nên bổ sung thêm trang bị và các chuyên gia điều trị bỏng nặng.

5. Vai trò của hội bỏng quốc gia trong việc đáp ứng với thảm hoạ
Ở các nước chưa có lực lượng cứu hộ cháy nổ đặc biệt, hội bỏng có vai trò rất quan trọng. Đây là tổ chức duy nhất nhận định, nắm bắt một cách khoa học, chính xác, đưa ra các quyết sách hợp lý về mặt y tế trong đáp ứng với thảm hoạ bỏng hàng loạt. Chức năng của hội bỏng trong trường hợp này là:
+ Cung cấp sơ đồ và danh sách các trung tâm y khoa và các cơ sở y tế có khả năng tham gia
+ Lập kế hoạch đối phó thảm hoạ với danh sách các nhu cầu trang thiết bị phục vụ cho thảm hoạ. Khảo sát tình hình thực tế tại các cơ sở y tế sẽ tham gia đáp ứng thảm hoạ bao gồm nhân lực và trang thiết bị y tế, khả năng điều trị của từng cơ sở là bao nhiêu bệnh nhân. Danh sách các chuyên gia bỏng có thể tham gia và cử đến vùng thảm hoạ.
+ Liên hệ với các bộ, ngành của chính phủ về việc tổ chức, phân bổ sự bổ sung trang bị, chuyên gia tới từng cơ sở điều trị thảm hoạ
+ Tổ chức đào tạo lại các kiến thức cơ bản trong cấp cứu thảm hoạ bỏng
+ Duy trì trung tâm xử lý thảm hoạ bỏng để tiếp nhận thông tin và điều phối hợp lý các tình huống.
+ Tư vấn cho cơ quan có trách nhiệm về các phương án xử lý tình huống dựa trên các thông tin thu được.
+ Thu nhận và gửi các thông tin về các nhu cầu cần bổ sung của các sơ sở y tế tham gia xử lý thảm hoạ tới cơ quan có trách nhiệm.

Hội bỏng của mỗi quốc gia nên có kế hoạch sẵn sàng đối phó với thảm hoạ bỏng hàng loạt cũng như tạo ra một hệ thống liên lạc thuận tiện sẵn có giữa các bệnh viện và hội bỏng. Hội bỏng và uỷ ban xử lý thảm hoạ Quốc gia cũng cần phải có kế hoạch hành động cho tình huống thảm hoạ bỏng hàng loạt vượt quá khả năng đáp ứng của Quốc gia đó.

Rất cần thiết khi biết được quốc gia nào, hội bỏng nào và tổ chức quốc tế nào có thể giúp đỡ trước khi thảm hoạ xảy ra. Cần phải đảm bảo hệ thống thông tin liên lạc, tiến hành các diễn tập thường xuyên.

Phiếu chuyển bệnh nhân

Tên trạm phân loại hoặc sơ cứu
.....................................................................................
Thông tin bệnh nhân Họ và tên:………………………...........……………
Giới tính: € Nam € Nữ

Tuổi: .......................Cân nặng (kg)…….....................
Chuyển tới
.....................................................................................
Người chịu
trách nhiệm
Họ tên và chữ ký
....................................................................................
Thời điểm chuyển
Ngày/tháng/năm
/…/…/

Thời điểm ..….…..............................................
Diện tích bỏng
Tổng diện tích bỏng: …….%
(ghi ký hiệu độ sâu bỏng)
Bỏng hô hấp
€ không € có thể € có
Chấn thương khác
€ có € không

(Mô tả ………………………………….……………
Ý thức
€ Tỉnh € lơ mơ € ngủ gà € hôn mê
Tổng lượng dịch truyền
Tổng ( ) ml (uống + truyền dịch)
Lượng dịch truyền ( ) ml
Thời gian ( ) (thời gian truyền dịch)
Dịch truyền
Ringerlactat ( ) ml
Natrichlorua ( ) ml
Dịch khác ( ) ml
Đặt nội khí quản
€ có € không
Mode thở máy
€ Tự nhiên € Hỗ trợ € kiểm soát
Thở Oxy
€ có € không
(Theo http://www.vienbongquocgia.org.vn)
Read On 0 nhận xét

Khi cơ thể có hạch lớn

Hạch là một tổ chức lympho, nằm ở nhiều nơi như vùng cổ, trên xương đòn, nách và bẹn, bình thường không sờ thấy. Khi phải hoạt động mạnh để bảo vệ cơ thể chống lại bệnh tật, hạch sưng to.

Hạch là một tổ chức liên võng nội mô, có chức năng sản sinh ra dòng bạch cầu lympho và sản xuất kháng thể để chống lại tác nhân gây bệnh. Khi hạch hoạt động mạnh thì sưng to, hay gặp trong các bệnh liên quan đến hệ liên võng nội mạc, bệnh tạo huyết, các bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ung thư. Hạch có thể bằng hạt ngô, hạt lạc, có khi to bằng quả trứng, quả xoài, đau hoặc không đau, rất dễ phát hiện. Có 4 yếu tố quan trọng để giúp chẩn đoán hạch to là: Tuổi bệnh nhân, đặc điểm của hạch bạch tuyết, vị trí hạch, các biểu hiện lâm sàng và toàn thân phối hợp với hạch to.

Hạch to ở vùng cổ, vùng thượng đòn

Lao hạch: Hạch nhỏ, nhiều, xuất hiện dần dần, không đau, xếp thành chuỗi dọc theo hai bên cơ ức đòn chũm, dưới xương hàm. Hạch to nhỏ không đều, cái mềm, cái chắc, lúc đầu di động dễ, lâu dần hạch dính vào nhau, có khi rò ra chất bã đậu, bờ vết rò nham nhở, màu tím, để lâu thành sẹo xấu, dân gian gọi là “tràng nhạc”. Kèm theo có khi sốt về chiều, người gầy, sút cân, xanh xao. Có những tổn thương lao ở nơi khác như phổi, màng phổi, màng bụng.

Hạch Hodgkin: Do Hodgkin tìm ra năm 1832, gặp ở nam giới nhiều hơn nữ, hạch to ở hố thượng đòn trái, rồi lan lên cổ, ít lâu có thể có hạch ở hai bên, nhưng bên trái vẫn to hơn. Dần dần có hạch ở nách (65%), trung thất (70%). Đặc điểm của hạch là rắn, không đau, không dính vào da, không dính vào nhau, không hóa mủ. Thường kèm theo lách to, cứng như đá (65%), ngứa (70%). Bệnh nhân sốt từng đợt, mỗi lần sốt thì hạch to thêm hoặc xuất hiện một hạch khác.

Hạch to xuất hiện ở bẹn

Bệnh Nicolas Favre: Do nhiễm Chlamydia, xuất hiện thành chùm hạch to nhiều hoặc ít, phát triển sâu vào hố chậu. Hạch đau và mềm, có thể rò ra thành nhiều lỗ như kiểu gương sen.

Bệnh hạ cam: Do nhiễm khuẩn đường sinh dục. Hạch bẹn nhiều khi ở một bên, một hạch to, nóng, đau, mõm, tiến triển thành mủ. Tìm thấy trực khuẩn Ducrey trong mủ của hạch.

Bệnh giang mai: Giai đoạn đầu, hạch nổi to ở bẹn, là chỗ xâm nhập của xoắn khuẩn Treponema pallidum. Thường bẹn có 4-5 hạch nhỏ, hơi rắn, di động dễ. Sang giai đoạn hai, hạch có thể mọc mọi nơi trong cơ thể.

Hạch to vị trí không xác định

Viêm hạch: Hạch nhỏ đơn độc hoặc từng chùm, ở bất kỳ vị trí nào: cổ, nách, bẹn. Đau âm ỉ, đau tăng khi sờ nắn, nóng, di động dưới da và tổ chức sâu, có sốt. Hạch viêm nặng có thể vỡ mủ đặc, xanh hoặc vàng. Xét nghiệm máu: Bạch cầu đa nhân trung tính tăng.

Viêm nhiễm gây sưng hạch ở vùng lân cận: Thường thấy hạch to ở những vùng có hạch bạch huyết chi phối. Khi bị viêm nhiễm, các hạch này sẽ sưng lên như viêm họng, viêm amidan, viêm ở vùng răng, hàm, mặt, gây sưng hạch ở dưới hàm, nhọt ở vùng đùi có hạch ở bẹn. Zona ngực có hạch ở nách. Hạch ở đây có đặc tính của một viêm nhiễm: sưng, nóng, đỏ, đau, mật độ chắc, di động được. Có khi hạch tiến triển thành mủ, vỡ ra ngoài.

Ung thư hạch (Lymphosarcome): Còn gọi là bệnh Kundrat (1893), gặp ở người trên 45 tuổi. Nhiều hạch to ở cổ, thượng đòn, nách và hạch mạc treo. Hạch thường dính với nhau thành khối lớn, xuất hiện và phát triển nhanh. Ấn đau, mật độ rắn, dính vào tổ chức dưới da và tổ chức sâu, nên không di động được. Bệnh nhân suy sụp toàn thân, tiến triển nhanh 1-2 năm. Lách to trung bình, làm xét nghiệm sinh thiết thấy tế bào ung thư.

Ung thư di căn: Tính chất của hạch giống như trên. Ung thư từ một cơ quan khác di căn vào hệ thống hạch bạch huyết. Thường ung thư vú di căn vào hạch nách, ung thư xương, dạ dày, phế quản, vòm họng di căn hạch thượng đòn, ung thư tử cung, tinh hoàn di căn hạch bẹn.

Hạch to do cơ địa: Thấy ở một số người gầy yếu, sức khỏe toàn thân kém. Thường hạch ở bẹn, cổ. Hạch nhỏ dễ di động, không đau, mật độ chắc. Không điều trị, sau một thời gian hạch sẽ hết khi sức khỏe cơ thể hồi phục bình thường.

Hạch to do các bệnh về máu

Bệnh bạch cầu cấp: Hạch to, mềm, di động, xuất hiện hầu hết ở các vùng có hạch (cổ, nách, hố thượng đòn, bẹn), hạch chỉ là triệu chứng phụ. Dấu hiệu nổi bật là hội chứng thiếu máu phát triển nhanh, hội chứng chảy máu dưới da, sốt rất cao, lách to nhanh. Có tổn thương loét niêm mạc miệng và họng. Làm huyết đồ thấy giảm dòng hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu tăng rất nhiều...

Bệnh bạch cầu mạn thể lympho: Hạch nhiều, đa số hạch bé, phát triển nhanh. Chỉ trong vòng vài ba tháng là các hạch ở cổ, nách, bẹn to, mềm, di động được. Lách chỉ hơi to, làm huyết đồ và tủy đồ, hồng cầu và tiểu cầu giảm, dòng lympho tăng nhiều.

Hạch to do các bệnh toàn thân

Bệnh dịch hạch (thể nổi hạch): Trước đây có những đại dịch mà năm 1894 Yersin đã tìm thấy vi khuẩn Pasteurella pestis. Ngày nay rất ít gặp loại dịch này. Nguồn bệnh từ loài chuột đồng. Bọ chuột là động vật trung gian truyền bệnh.

Trước khi nổi hạch, bệnh nhân thường có khó chịu như nhức đầu, chóng mặt, đau tứ chi, buồn nôn và gai sốt. Hạch nổi ở bất kỳ nơi nào, phần nhiều hạch ở bẹn, nách, cổ, cơ ức đòn chũm. Hạch hình tròn hay hình quả xoài, hạch dính vào da xung quanh, nắn rất đau. Sau độ một tuần thì đỡ đau, mềm và vỡ mủ. Trong mủ có thể thấy vi khuẩn Pasteurella pestis, tình trạng toàn thể rất nặng. Cơ thể suy nhược, ủ rũ, bơ phờ. Sốt cao 39-40oC. Khi hạch vỡ mủ thì hạ sốt.

Bệnh phát ban: Như Rubella, sốt xuất huyết, sau khi sốt thì nổi ban hay xuất huyết. Sau ba ngày thì hết ban. Hạch to bằng đốt ngón tay, hay nhỏ hơn, mềm, không hóa mủ, đau khi sờ nắn.

Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân do nhiễm virus: Nhiều hạch, to bằng hạt lạc đến quả táo, xuất hiện ở toàn thân. Hạch chắc, nhẵn, sờ đau, di động dễ dàng, không hóa mủ. Toàn thân có sốt cao, mạch nhanh, mắt đỏ. Có viêm hoặc loét họng, lách to.

Bệnh BBS (Besnier-Boeck-Schaumann, hay bệnh Sarcoidose): Là bệnh của các tổ chức liên kết. Hạch toàn thân rất rắn, không đau, tiến triển chậm, hầu như không khỏi. Sinh thiết hạch thấy tế bào đặc hiệu. Tổn thương các phủ tạng như: phổi xơ, đưa đến tâm phế mạn tính; tâm viêm mạn, urê tăng, protein niệu, đái ra máu; cơ tim bị xơ, loạn nhịp.

Bệnh mèo cào: Do móng mèo, do gai các cây có mủ (xương rồng), do chấn thương nhỏ đưa virus vào. Sau 15 ngày bị cào, bệnh nhân sốt thì xuất hiện hạch toàn thân, nhưng nhiều nhất là ở khu vực bị cào. Hạch nhỏ không đau, xét nghiệm bạch cầu hạ, dòng tế bào Monocyte và Lympho tăng. Hai, ba tuần sau sẽ khỏi.

Hạch do phản ứng thuốc: Như Hydralazin, Allopurinol…

Khi thấy nghi ngờ hoặc chắc chắn mình có hạch to, nên đến bác sĩ sẽ có những lời khuyên cụ thể và cách xử trí thích hợp.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Read On 0 nhận xét

Paracetamol - xin chớ lạm dụng!

Paracetamol là một thuốc giảm đau, hạ sốt được sử dụng rộng rãi nhất, hiện có trên 100 sản phẩm thuốc khác nhau có chứa paracetamol. Đây là một thuốc nói chung an toàn, nhưng khi dùng quá liều có thể gây ngộ độc, chủ yếu là gây hoại tử tế bào gan.

1. Quá trình chuyển hóa

Với liều điều trị, sau uống khoảng 1 giờ thuốc được hấp thu hoàn toàn. Khi dùng quá liều, thuốc được hấp thu hết sau 4 giờ, ngoại trừ khi bệnh nhân uống đồng thời các thuốc làm chậm quá trình rỗng dạ dày và khi thuốc ở dạng giải phóng chậm thì thời gian hấp thu lâu hơn..

Thuốc được chuyển hoá ở gan với một tốc độ đều đặn. Quá trình chuyển hoá thuốc là căn nguyên dẫn đến ngộ độc. Paracetamol là một trường hợp hiếm hoi về tình trạng nhiễm độc thuốc do gan (ngược hẳn với hoạt động khử độc bình thường của gan). 90% thuốc được chuyển hoá theo con đường sunphat hoá và glucuronit hoá, phần còn lại được hệ enzym cytochrome P-450 chuyển hoá nốt (hệ này chủ yếu ở gan).

Hoạt động chuyển hoá phụ thuộc theo tuổi, ở tuổi càng nhỏ thì chuyển hoá theo con đường sunphat càng nhiều, đến 12 tuổi thì chuyển hoá paracetamol ở trẻ em giống người lớn. Một chất chuyển hoá do hệ enzym cytochrome P-450 giải phóng là N-acetyl-p-benzoquinoneimine (NAPQI) gắn với màng tế bào gan và nếu không bị trung hoà bởi các chất chống ôxy hoá thì sẽ gây tổn thương lớp màng lipid kép của tế bào.

Glutathione của gan là chất chống ôxy hoá chủ yếu, chất này gắn và trung hoà NAPQI. Khi quá liều paracetamol thì kho dự trữ glutathione bị cạn kiệt dần và nếu thiếu hụt mất trên 70% số lượng bình thường thì NAPQI không bị trung hoà và sẽ gây tổn thương cho tế bào gan.

Về mặt lý thuyết, tất cả các chất ảnh hưởng hệ enzym này đều ảnh hưởng đến lượng NAPQI tạo ra. Các chất có thể gây cảm ứng với hệ enzym này bào gồm ethanol, INH, rifampin, phenytoin, carbamazepine, khói thuốc lá và thực phẩm hun bằng than củi..

Những người dùng thuốc chống động kinh kéo dài, nghiện rượu, dùng thuốc chống lao kéo dài có diễn biến của quá liều paracetamol tồi hơn đối tượng khác. Trẻ em dưới 5 tuổi tỏ ra có khả năng đề kháng với các tác dụng độc của paracetamol, nguyên nhân người ta chưa rõ.

2. Sử dụng trong những trường hợp đặc biệt.

Với những đặc điểm chuyển hóa nhưu trên cần hết sức thận trọng khi sử dụng paracetamol, nhất là trong những trường hợp đặc biệt.

- Phụ nữ có thai: Paracetamol là thuốc hạ sốt giảm đau được khuyên dùng ở phụ nữ có thai, người ta chưa thấy có tác dụng gây quái thai của thuốc này.

Tuy nhiên khi quá liều paracetamol có thể gây độc với thai vì thuốc này dễ dàng qua được nhau thai và ở thời điểm 14 tuần, bào thai đã có khả năng chuyển hoá paracetamol và tạo ra NAPQI. Việc chậm trễ điều trị có thể dẫn đến tử vong của bào thai.

Do đó, người ta khuyến cáo dùng NAC sớm khi người mẹ dùng một lượng paracetamol có thể gây ngộ độc trong khi chờ đợi kết quả xét nghiệm nồng độ paracetamol trong máu.

- Người nghiện rượu: Những người nghiện rượu khi dùng quá liều paracetamol có nguy cơ ngộ độc cao hơn và một số nghiên cứu cũng thấy tỷ lệ tử vong cao hơn người bình thường.. Tính dễ bị ngộ độc paracetamol ở đây có lẽ do dự trữ glutathione bị giảm khi nghiện rượu và lượng NAPQI tạo ra nhiều hơn do hiện tượng entanol gây cảm ứng hệ enzym cytocrom P450.

- Quá liều paracetamol kéo dài: Liều paracetamol dùng hàng ngày được khuyến cáo là không quá 60 – 80mg/ kg/ ngày và không được quá 4gam/ ngày với người lớn, không quá 80mg/ kg với trẻ em. Khi dùng với liều cao hơn kéo dài có thể gây ngộ độc.

- Quá liều mạn tính paracetamol thường do sai lầm về điều trị trong các hoàn cảnh sau: Bệnh nhân tăng dần liều hàng ngày do tin rằng thuốc an toàn, sử dụng thêm các biệt dược khác có cũng chứa paracetamol hoặc bệnh nhân là trẻ em nhưng lại dùng các biệt dược chứa paracetamol của người lớn.

- Một số đối tượng có nguy cơ cao:

Những bệnh nhân nhin đói: do chuyển hoá paracetamol theo con đường glucuronit hoá bị giảm và tăng chuyển hoá qua hệ cytocrom P450, dẫn tới việc tạo ra nhiều NAPQI hơn.

Uống rượu trong vòng 5 ngày trước đó hoặc nghiện rượu: do ethanol gây cảm ứng hệ enzym cytocrom P450 và lượng glutathione bị cạn kiệt do dùng rượu liên tục. Hơn nữa, ngộ độc paracetamol ở người nghiện rượu có thể dễ bị bỏ qua do hiện tượng tăng transaminase được nghĩ là do nghiện rượu.

Tóm lại, dù paracetamol là một thuốc khá an toàn và được bán rộng rãi trên thị trường với rất nhiều tên biệt dược khác nhau, thì chúng ta cũng không nên tự ý dùng thuốc ,nhất là trong những trường hợp đặc biệt như phụ nữ có thai hay người nghiện rượu, trước khi sử dụng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng nên tham khảo ý kiến của bác sỹ hoặc nhân viên y tế.

theo http://www.benhhoctieuhoa.com

Read On 0 nhận xét

Khủng bố sinh học - đôi điều cần biết

Nhân loại tiến bộ lên án vũ khi hạt nhân, vũ khí sinh học với tính năng hủy diệt con người, vũ khớ sinh học đó trở thành một nguy cơ thảm họa cho sức khỏe cộng đồng..

Trong những năm gần đây, nhất là sau vụ khủng bố 11/9 vào nước Mỹ, khi mà phong trào ly khai của các tổ chức hồi giáo cực đoan hoạt động ngày càng có biểu hiện nguy hiểm và liều lĩnh hơn, thì vấn đề chống khủng bố bằng vũ khi sinh học hơn lúc nào hết là một vấn đề nóng bỏng cần có sự tham gia của từng cá nhân, từng tập thể và toàn xã hội nhằm tự bảo vệ, phòng chống, giảm nhẹ thiệt hại, ứng phó kịp thời, không để lây lan, cứu chữa kịp thời sớm và có hiệu quả người mắc.

1. Khủng bố sinh học là gì?

Khủng bố bằng vũ khí sinh học hay khủng bố sinh học (bioterrorism) dùng để chỉ những hành động làm phát tán có chủ định các yếu tố sinh học gây hại (như vi khuẩn, virus, chất độc có nguồn gốc sinh vật như các độc tố từ vi khuẩn, nấm độc v.v.). Những yếu tố này có thể gây bệnh (hay làm chết) người, động vật, thực vật.

Các yếu tố sinh học được sử dụng trong hinh thức khủng bố này có thể được sản xuất hoặc đã có sẵn trong tự nhiên nhưng có khả năng biến đổi để tăng sức chống chịu với thuốc, tăng khả năng gây bệnh cũng như khả năng lan truyền trong môi trường. Chúng có thể phát tán trong không khí, trong nước, trong thức ăn. Căn cứ vào mức độ ảnh hưởng, các nhân tố dùng trong khủng bố sinh học được phân làm ba nhóm A, B, C.

2. Các nhân tố nhóm A

Bao gồm những loại có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng và mức độ lây lan lớn. Thuộc nhóm này gồm có vi khuẩn nhiệt thán, dịch hạch, virus đậu mùa, vi khuẩn ung khí thán, virus sốt xuât huyết..

Vi khuẩn nhiệt thán bacillus anthracis (anthrax) : Bệnh than là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, từ động vật mà chủ yếu là động vật ăn cỏ lây sang người do trực khuẩn than bacillus anthracis gây ra, biểu hiện lâm sàng ở người là hội chứng nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân nặng với tỷ lệ tử vong cao.

Vi khuẩn thuộc nhóm gram dương, hình gậy, kích thước từ 1-6 micromet sinh nha bào có sức đề kháng cao với các nhân tố vật lý và hóa học. Vi khuẩn gây bệnh cho động vật hoang dó và động vật nhai lại.

Người cũng có thể bị nhiễm và mắc bệnh khi tiếp xúc với các cơ quan của gia múc mắc bệnh hay với một lượng lớn nha bào. Anthrax phát huy độc lực rất cao khi xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp (khi ta hít phải). Bệnh than không lây từ người sang người và đó có vaccin nhưng yêu cầu phải tiêm nhiều lần và có khả năng gây ảnh hưởng phụ.

Độc tố của vi khuẩn gồm hai yếu tố:

Yếu tố gây phù nề làm bất hoạt tế bào bạch cầu trung tính của vật chủ làm cho các tế bào này không có khả năng thực bào để tiêu diệt vi khuẩn;

yếu tố gây chết kích thích các đại thực bào sản sinh TNF-alpha và interleukin-1-beta gây sốc phản vệ và có thể gây chết vật chủ.

Các nghiên cứu gần đây cho thấy vi khuẩn nhiệt thán cũng tác động đến các tế bào nội mạc gây tổn thương các mạch máu dẫn đến sốc và chết do mất máu. Cơ thể chết do bệnh than thường có hiện tượng chảy máu từ các lỗ tự nhiên.

Virus đậu mùa (small pox): là loại virus có tính lây lan mạnh trong không khí và có độc lực cao, gây ra bệnh đậu mùa là bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây bằng đường hô hấp, bệnh dễ gây thành dịch, tỷ lệ tử vong cao, biểu hiện là hội chứng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân nặng. Người nhiễm virus có thể bị tử vong. Virus này không có vật chủ trung gian truyền bệnh và chỉ gây bệnh cho người.

Vi khuẩn Clostridium botulinum (vi khuẩn gram dương do Emile van Ermengem phân lập vào năm 1895), sản sinh độc tố botulin (độc tố gây chết do làm suy hụ hấp). Độc lực của botulin rất cao (chỉ cần 1 microgam hay 1 phần triệu gam đó có thể làm chết một người, một giọt chất độc này có thể làm chết cả trăm ngàn người).

Nếu quy trình chế biến bảo quản không tốt trong chế biến thực phẩm (nhất là đồ hộp), thực phẩm có thể bị nhiễm vi khuẩn này. Phương pháp làm sôi kết hợp với điều áp có thể diệt được vi khuẩn. Nha bào của vi khuẩn không phát triển trong những đồ hộp có hàm lượng đường cao như mật ong, sirô nhưng có khả năng phát triển khi vào đường tiêu hóa của trẻ sơ sinh.

Virus sốt xuất huyết Ebola thuộc giống Ebolavirus họ Filoviridea gây bệnh với tỷ lệ chết cao do khả năng gây suy nhược đa cơ quan và làm mất máu trầm trọng. Bệnh lây nhiễm do tiếp xúc với dịch tiết của động vật bị nhiễm hoặc cơ thể người bị nhiễm. Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, bệnh nhân chết cần hỏa táng ngay. Đây là vũ khí sinh học nguy hiểm nhất, chưa có phương thức chống trả, bệnh xuất hiện nhanh, gây tử vong lớn.

Bệnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia pestis được các bác sỹ Thụy sĩ, Pháp và Alexandre Yersin phân lập vào năm 1894. Vật chủ trung gian là các loài gặm nhấm. Bệnh có thể được truyền sang người qua bọ chét, do tiếp xúc với con vật bị nhiễm hay hít phải khí bị nhiễm. Tỷ lệ tử vong 100% nếu không được điều trị.

Tularemia hay "sốt thỏ" do vi khuẩn Francisella tularensis gây ra.Bệnh không lây từ người sang người mà do hít phải khí nhiễm khuẩn. Vi khuẩn này được sử dụng làm vũ khí sinh học do đặc điểm dễ lây truyền và dễ sử dụng.

Ngoài những nhân tố nhóm A, cũng cần lưu ý các nhân tố nhóm B ( nhóm này có khả năng lây nhiễm và gây bệnh ở mức nhẹ hơn) như Vi khuẩn brucella, Sốt Q

Staphylococcal enterotoxin B , Mầm bệnh trong thức ăn , Mầm bệnh trong nước uống và các nhân tố nhóm C - các nhân tố thuộc nhóm này có thể được sản xuất với một lượng lớn vì chúng dễ sử dụng, dể sản xuất và có độc tính cao (ví dụ vi khuẩn lao).

3. Thiệt hại do khủng bố sinh học.

Gây tâm lý hoảng loạn, bất an trong cộng đồng.

Đe dọa sức khỏe, tính mạng của một nhóm người, của cư dân trong một vùng, một quốc gia hay toàn thể giới.

Gây tổn thất về kinh tế do các chi phí sử lý nguồn bệnh được phát tán, do thiệt hại trong nông nghiệp từ dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, cây trồng; giảm chất lượng sản phẩm nông nghiệp và gây khó khăn cho tiêu thụ sản phẩm.

Suy thoái môi trường, mất cân bằng sinh học.

Ảnh hưởng đến ổn định kinh tế, chính trị v.v.

4. Một số biện pháp phát hiện khủng bố sinh học.

Thiết lập và vận hành có hiệu quả hệ thống chẩn đoán và phòng trị bệnh truyền nhiễm trong cộng đồng, vùng lãnh thổ và mỗi quốc gia.

Phát triển các hệ thống phòng trừ dịch bệnh trong nông nghiệp

Thiết lập và thực hiện hiệu quả các quy chế quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm.

Tuyên truyền trong cộng đồng những hiểu biết chung nhất về vũ khí sinh học và khủng bố sinh học. Phát triển các phương pháp điều trị.

Quản lý chặt chẽ các cơ sở có nguy cơ là nơi làm "rò rỉ" các tác nhân sinh học có hại như bảo tàng giống vi sinh vật, ngân hàng giống vi sinh vật, ngân hàng gene...

Thực hiện chặt chẽ việc kiểm soát xuất-nhập các yếu tố sinh học v.v.

Read On 0 nhận xét

Vitamin A - Xin chớ lạm dụng!

Vitamin A là dạng vitamin tan trong dầu, có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể giúp tế bào thực hiện hoạt động sao chép bình thường, cần thiết cho sức khỏe thị giác, giúp cho các tế bào trong một loạt cấu trúc của mắt luôn khỏe mạnh...

Ngoài ra, nó còn rất quan trọng đối với sự biến đổi ánh sáng thành các tín hiệu thần kinh trong võng mạc, cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển bình thường của phôi thai và thai nhi, cần thiết cho chức năng sinh sản, vì nó gây ảnh hưởng lên chức năng và sự phát triển của tinh trùng, buồng trứng và nhau thai…

Vitamin A có rất nhiều trong gan, cá thịt sữa, trứng… trong các loài thực vật như gấc, cà rốt, cà chua, rau xanh..Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nếu như sử dụng không đúng cách, chúng ta sẽ gặp phải những tác dụng bất lợi của vitamin A mà điển hình là tình trạng viêm gan cấp hoặc mạn. Trong phạm vi bài viết này, xin được đề cập đến nhưng mặt tích cực cũng như những tác dụng không mong muốn của vitamin A.

Vitamin A benefit

1. Vậy vitamin A có những tác dụng gì?

Trên mắt: vitamin A có vai trò tạo sắc tố võng mạc giúp mắt điều tiết, có thể nhìn được trong điều kiện thiếu ánh sáng. Sở dĩ có khả năng này là do trong bóng tối Vitamin A (cis - retinal) kết hợp với opsin tạo nên sắc tố võng mạc là rhodopsin – đây là sắc tố nhạy cảm với ánh sáng có cường độ thấp giúp mắt nhìn được trong điều kiện thiếu ánh sáng. Khi ra ánh sáng lại xảy ra quá trình ngược lại. do đó nếu cơ thể thiếu vitamin A, khả năng nhìn trong tối giảm gây ra bệnh quáng gà, nếu không điều trị kịp thời sẽ gây mù lòa.

Trên da và niêm mạc: Vitamin A rất cần thiết cho quá trình biệt hóa các tế bào ở da và niêm mạc, có vai trò bảo vệ sự toàn vẹn của cơ cấu và chức năng của biểu mô khắp cơ thể,nhất là biểu mô trụ của mô mắt.Vitamin A làm tăng tiết chất nhầy và ức chế sừng hóa. Vì vậy nếu thiếu vitamin A, quá trình bài tiết chất nhày bị giảm hoặc mất, biểu mô sẽ bị teo và thay vào đó là các lớp keratin dày lên làm da trở lên khô, nứt nẻ và sần sùi.

Trên xương: cùng với vitamin d, vitamin A có vai trò cho sự phát triển xương, tham gia vào sự phát triển của cơ thể, đặc biệt ở trẻ em, do đó nếu thiếu vitamin A trẻ em sẽ còi xương chậm lớn.

Trên hệ miễn dịch: giúp phát triển lách và tuyến ức – hai cơ quan quan trọng tạo ra các lympho bào. Gần đây có nhiều công trình chứng minh tác dụng của vitamin A và tiền chất của nó là caroten có tác dụng chống oxy hóa và tăng sức đề kháng của cơ thể. Khi thiếu vitamin A cơ thể dễ nhiễm khuẩn và dễ nhạy cảm với tác nhân gây ung thư.

Ngoài ra khi thiếu vitamin A còn có thể gây tổn thương đường hô hấp, tiết niệu, sinh dục và thiếu máu nhược sắc.

2. Ai dễ bị thiếu vitamin A?

Những người kiêng ăn gan, các sản phẩm sữa và các loại rau chứa beta caroten - tiền tố vitamin A và sẽ chuyển thành vi tố này trong cơ thể.

Trẻ sơ sinh quá nhẹ cân.

Người bị suy tuyến giáp gây giảm hoạt động chuyển hóa beta caroten thành vitamin A.

Người già bị tiểu đường type 2.

Các dấu hiệu thiếu vitamin A sớm nhất là thị lực ban đêm yếu, ngoài ra có thể đi kèm khô da, dễ bị nhiễm trùng

3. Cần bổ sung như thế nào?

Tùy thuộc vào tình trạng bệnh, phòng ngừa thiếu vitamin A dùng 5000 – 10.000 UI/ngày. Phần lớn thì mức hấp thu dưới 25.000 IU (tương đương 7.500 mcg) vitamin A mỗi ngày là an toàn. Tuy nhiên, người trên 65 tuổi hoặc mắc bệnh gan thì không vượt quá 15.000 IU/ngày, trừ phi có chỉ định của bác sĩ. Đối với phụ nữ mang thai, mức hấp thu tối ưu vẫn đang được đánh giá lại, song dưới 10.000 IU (3.000 mcg) mỗi ngày là an toàn.

A diagram showing how vitamin A is used by the eye

4. Những tác dụng không mong muốn

Ngộ độc cấp: khi dùng liều rất cao, người lớn > 1.500.000 UI/ ngày, trẻ em > 300.000 UI/ngày, thường xuất hiện sau khi uống thuốc 4 – 6h, biểu hiện hoa mắt chóng mặt, buồn nôn, nôn, kích thích, tiêu chảy, co giật, mê sảng.

Ngộ độc mạn: khi dùng liều trên 100.000 UI/ ngày trong 10 – 15 ngày, biểu hiện mệt mỏi, kích thích, rối loạn tiêu hóa, gan to, lách to, da đổi màu, nứt nẻ, rụng tóc chảy máu, tăng calci, phù nề, trẻ em có thể tăng áp lực nội sọ, ù tai ngừng phát triển xương dài…phụ nữ có thai dùng kéo dài sẽ gây quái thai.

Đáng lưu tâm nhất là khả năng gây ngộ độc cho gan. Uống vitamin A quá nhiều là nguyên nhân gây ngộ độc gan phụ thuộc vào liều lượng có thể đưa đến xơ gan. Uống thường xuyên liều lớn vitamin A (>25.000 đơn vị /ngày) có thể gây ngộ độc mãn tính và tổn thương gan.

Tổn thương gan có thể xảy ra khi uống 15.000 - 40.000 đơn vị /ngày trong một năm , nhưng liều cao hơn có thể ngộ độc trong vòng vài tháng. Tổn thương gan nhiều hay ít tùy thuộc liều lượng và thời gian sử dụng. Nhiều bệnh nhân có bệnh gan do vitamin A gây ra có khi không nhận thấy , chỉ khi bác sĩ lâm sàng thấy có hiện tượng bệnh nhân dùng vitamin A kéo dài kèm viêm gan mỡ, tăng áp lực tĩnh mạch cửa thì mới phát hiện ra. Người nghiện rượu nguy cơ càng cao.

Tóm lại, dù vitamin A có vai trò rất quan trọng đối với co thể, song chúng ta cũng không nên lạm dụng nó, tốt nhất trước khi sử dụng hãy tham khảo ý kiến bác sỹ.

Read On 0 nhận xét

Lỗi lo nghiện rượu

Những người uống rượu thường xuyên với mục đích tiêu khiển, để che đậy những khiếm khuyết của bản thân, quên đi những vướng mắc trong cuộc sống... được coi là lạm dụng rượu. Từ lạm dụng rượu đến phụ thuộc rượu và nghiện rượu có ranh giới rất mỏng manh.

Y học ngày nay vẫn coi nghiện rượu là một bệnh mạn tính, vì bệnh nhân uống rượu hàng ngày, lượng rượu này ảnh hưởng đến não, gan, tim mạch... từ đó gây ra các rối loạn về tâm thần và các tổn thương ở các hệ thống tiêu hóa, tim mạch...

Xã hội cũng coi những người nghiện rượu là gánh nặng vì họ mất khả năng lao động, hay gây rối trật tự công cộng, làm tổn thương các mối quan hệ trong gia đình, gây ra các tai nạn giao thông, sống bê tha, nhân cách suy đồi.

Không nên nhầm lẫn giữa nghiện rượu với say rượu trong sinh hoạt thường ngày. Người nghiện rượu có các dấu hiệu bệnh cơ thể và tâm thần rõ ràng hơn. Tuy nhiên, cần biết rằng say rượu thường xuyên là giai đoạn đầu của nghiện rượu. Những người say rượu đều có biến đổi nhân cách và suy thoái về đạo đức xã hội.

Lượng rượu uống hàng ngày:

Lượng rượu uống hàng ngày của bệnh nhân nghiện rượu còn khác nhau, tuỳ thuộc vào từng vùng, miền và tập quán của nhân dân địa phương. Nói chung, lượng rượu uống trong ngày phải vượt quá 300 ml rượu 40o cồn thì bệnh nhân mới có thể trở thành nghiện rượu sau 10 năm uống liên tục. Đây chỉ là giới hạn dưới của nghiện rượu.

Bệnh nhân nghiện rượu thực tế uống rải rác trong ngày. Họ uống rượu thay cho nước, tổng số lượng uống lên đến 1000 ml rượu 40o cồn. Không hiếm trường hợp người nghiện uống hết 2 lít rượu/ngày. Cá biệt, có bệnh nhân uống tới 4 lít rượu 40o cồn/ngày. Những bệnh nhân này hầu như không ăn uống gì ngoài uống rượu.

Ở Việt Nam, đa số các bệnh nhân nghiện rượu thường xuyên sử dụng loại rượu do nhân dân tự nấu từ ngũ cốc, khoai, sắn... với qui trình nấu rượu rất thô sơ. Các loại rượu này có độ cồn trong khoảng 30-45 độ, nhưng không được khử độc, vì thế có chứa nồng độ aldehyd và các tạp chất khác rất cao, rất có hại cho người uống. Hơn nữa, loại rượu này thường được sử dụng ngay sau khi cất, không có thời gian lưu trữ để các chất độc có thời gian phân huỷ, tác hại khôn lường.

Nhiều cơ sở nấu rượu còn tìm cách pha thêm cồn công nghiệp và các chất khác vào rượu để tăng nồng độ rượu và làm rượu trong hơn. Nếu rượu uống được pha thêm một lượng nhỏ rượu methanol thì sẽ gây hậu quả khôn lường. Người uống phải loại rượu này sẽ bị hôn mê, mất trí nhớ, mù mắt và có thể tử vong.

Tác dụng của rượu đối với cơ thể

Rượu vào cơ thể được phân bố đến các cơ quan và gây ra các tác dụng chuyên biệt đến các chức năng khác nhau.

- Trên hệ thần kinh: Tác dụng của rượu phụ thuộc vào nồng độ của nó trong máu. Nồng độ rượu thấp có tác dụng an thần và giải lo âu. Nồng độ rượu cao hơn gây ra những rối loạn tâm thần, mất điều hoà, không tự chủ hành vi. Nồng độ cao hơn nữa có thể dẫn đến hôn mê, ức chế hô hấp và có thể tử vong.

- Trên hệ tiêu hóa: rượu nhẹ dưới 20o cồn có tác dụng làm tăng tiết dịch vị, tăng nhu động ruột, tăng khả năng hấp thu của niêm mạc ruột. Ngược lại, nồng độ rượu trên 20o cồn thì gây ức chế tiết dịch vị, ức chế khả năng hấp thu thức ăn của niêm mạc ruột. Rượu mạnh trên 40o cồn có thể phá huỷ lớp nhầy bảo vệ niêm mạc gây viêm ruột, co thắt vùng hạ vị và nôn.

Các bệnh do rượu gây ra

- Viêm gan và xơ gan: Tổn thương ở gan thường là gan nhiễm mỡ, viêm gan, xơ gan. Tỷ lệ xơ gan do rượu ngày càng tăng. Ở người nghiện rượu, nguy cơ chết do xơ gan cao gấp 10 lần so với người bình thường. Mặt khác, khoảng 10% số người nghiện rượu sẽ phát triển thành xơ gan. So với xơ gan thì viêm gan do rượu còn phổ biến hơn, gặp ở 2/3 số người uống rượu nhiều.

- Viêm dạ dày: Uống rượu làm tăng tiết dịch vị, biến đổi chất nhày bảo vệ niêm mạc dạ dày từ đó tăng nguy cơ viêm dạ dày. Chảy máu đường tiêu hoá cấp cũng thường xảy ra ở bệnh nhân viêm dạ dày có uống rượu.

- Viêm tụy: Uống rượu có thể gây viêm tuỵ cấp và viêm tụy mạn tính. Lượng rượu uống càng nhiều, thời gian uống rượu càng lâu thì tỷ lệ viêm tụy mạn tính càng cao.

Tổn thương tụy sẽ làm giảm tiết insulin và các men tiêu hoá của tụy, dẫn đến cản trở chuyển hoá glucoza, giảm hấp thu lipid. Hệ quả của nó là đái tháo đường, tiêu chảy và làm nặng nề thêm quá trình nhiễm mỡ ở gan.

- Tăng huyết áp do rượu: Việc uống nhiều rượu mỗi ngày gây ra tình trạng tăng huyết áp lệ thuộc rượu mà phải sau nhiều ngày ngừng rượu mới có thể trở lại bình thường. Tăng huyết áp kết hợp với tình trạng rối loạn đông máu do giảm tiểu cầu ở bệnh nhân nghiện rượu là nguyên nhân gây xuất huyết não xuất hiện trong vòng 24 giờ sau khi uống nhiều rượu.

- Bệnh giãn cơ tim do rượu: Rượu tác động trực tiếp trên cơ tim gây giãn cơ tim do rượu. Bệnh thường xuất hiện ở người nghiện rượu nhiều năm, triệu chứng suy tim phát triển dần dần. Suy tim trong nhiễm độc cơ tim do rượu là loại suy tim có thể hồi phục khi bệnh nhân được phát hiện sớm và ngừng uống rượu. Trường hợp suy tim đã nặng thì việc ngừng uống rượu tuy không giúp suy tim hồi phục nhưng cũng làm chậm phát triển của suy tim. Với những trường hợp bệnh nhân vẫn tiếp tục uống rượu thì họ sống không quá 3 năm nữa.

( theo suckhoedoisong.vn )
Read On 0 nhận xét

Phòng chống bệnh ký sinh trùng

Tuyên truyền cách
phòng chống bệnh ký sinh trùng cho nhân dân

Với điều kiện vi khí hậu ở vùng nhiệt đới, trong đó có Việt Nam thì các bệnh ký sinh trùng, đặc biệt là ký sinh trùng ký sinh và gây bệnh ở hệ tiêu hóa lưu hành khá phổ biến ở khu nhiệt đới và cận nhiệt đới, đồng thời được xem là bệnh thường gặp tại những nước đang phát triển hoặc kém phát triển.

Từ mức độ phổ biến cũng như khả năng lây lan của các bệnh lây truyền tại đường ruột này nên khi phát hiện chúng xuất hiện hoặc nổi trội tại một khu vực hoặc quốc gia, liên vùng,…có thể phản ánh gián tiếp về điều kiện vệ sinh và chất lượng sinh hoạt của địa phương đó.

Về chủng loại gây bệnh, chúng ta có thể thấy rằng ký sinh trùng đường ruột gây bệnh phần lớn bắt nguồn từ các đơn bào (protozoa) và một số loài giun, sán; trong đó, các đơn bào gây bệnh chiếm chủ yếu như Entamoeba histolytica ở đại tràng, ở phổi, gan mật, bệnh do nhiễm trùng roi Giardia lamblia gây tiêu chảy và nhiễm đơn bào hình cầu Cryptosporidium.

Nhiễm giun sán có phổ loài rộng hơn nhiều với giun đũa, giun móc, giun mỏ, giun tóc, giun kim, sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis, Opisthorchis viverinii, sán lá gan lớn lạc chỗ và một số loài sán dây bò và dây lợn.

1. Đường lây truyền và yếu tố thuận lợi của các tác nhân gây bệnh

- Cách thức ký sinh trùng đường ruột gây nhiễm bệnh ở người tùy theo các chủng, loại gây bệnh khác nhau có thể đường vào khác nhau. Nhìn chung, người ta chia thành hai con đường lây truyền: [1] qua đường miệng xuống đến dạ dày và ruột non, ruột già rồi gây bệnh tại đó (giun đũa tóc, sán lá, sán dây, giun lươn, đơn bào amíp,…), [2] , lây truyền qua đường da, niêm mạc (giun móc, mỏ qua đường da niêm chân khi đi chân đất ròi theo một chu kỳ đến ký sinh và gây bệnh tại tá tràng như giun Necator americanus, Ancylostoma duodenal,…);

- Phần lớn ký sinh trùng xâm nhập vào cơ thể người qua đường miệng (ăn uống). Sau khi phát triển rồi tưởng thành sẽ đẻ trứng và ấu trùng theo đường mật hoặc ruột theo phân ra ngoài môi trường, gây ô nhiễm và sẽ là điều kiện nhiễm tốt khi con người tiếp xúc, chúng sẽ đi vào trực tiếp hoặc thông qua bằng con đường bón phân gián tiếp để gây ô nhiễm đất trồng và rau quả, trái cây hoặc nguồn nước.

Những thói quen “không tốt” trong ăn uống hoặc tập quán ăn sống, uống nước lã, thói quen không rửa sạch tay trước khi ăn và sau khi vệ sinh, …đều có thể để trứng của ký sinh trùng di chuyển từ miệng vào cơ thể;

- Một số tác nhân gây bệnh khác như sán dây bò, dây lợn hoặc sán lá gan lớn, sán gan nhỏ có chu trình sinh sản và phát triển khá phức tạp, lại qua nhiều vật chủ trung gian rồi có thể gây bệnh, nhiễm bệnh cớ thể do ăn các thực phẩm sống từ thịt bò, thịt lợn chưa nấu chín (gây bệnh sán dây bò, dây lợn và bệnh ấu trùng sán lợn) hoặc do thói quen ăn các rau thủy sinh chưa xử lý kỹ hoặc uống nước lã, ăn gan động vật sống còn nhiễm ấu trùng giai đoạn nhiễm hoặc ăn loại cá nước ngọt dưới dạng bóp gỏi hoặc cuốn ăn sống tại một số vùng hoặc kiểu ăn “semi” của Nhật Bản hoặc Thái Lan cũng là một trong những yếu tố dễ nhiễm bệnh (sán lá gan lớn, sán lá gan nhỏ);

2. Một số triệu chứng lâm sàng biểu hiện hay gặp khi nhiễm ký sinh trùng

- Qua thực tiễn lâm sàng, trên 75% số bệnh nhân mang mầm bệnh mà hoàn toàn không có triệu chứng, thậm chí đã tổn thương đường ruột và hệ gan mật rất nặng cũng không hề hay biết, đây không phải là vấn đề tốt mà trái lại chính các đối tượng đó sẽ mang mầm bệnh rất lớn, nguồn lây quan trọng từ một à đến nhiều người, thậm chí đến 1 vùng, do vậy trên các vùng lưu hành bệnh, chúng ta nên có thái độ tầm soát nhắm phát hiện sớm và chẩn đoán kịp thời, từ đó điều trị tiệt căn cho các bệnh nhân, giúp giảm bớt nguồn lây cho cộng đồng;

- Triệu chứng của bệnh ký sinh trùng đường tiêu hóa lệ thuộc vào chủng loại tác nhân gây bệnh thì có biểu hiện khác nhau; thường khi nhiễm và phát bệnh, bệnh nhân hay than phiền
các triệu chứng rối loạn tiêu hóa (phân lỏng, nhầy, không thành khuôn hoặc phân đặc và lỏng xen kẻ ngày này qua ngày khác),
đau bụng,
thiếu máu suy dưỡng (do giun sán hút máu hoặc trên tình hình chung đồng nhiễm nhiều loại giun sán),
sụt cân, ăn uống bình thường nhưng không tăng cân (do ngăn cản quá trình hấp thu chất dinh dưỡng tại các ngấn ruột),
khó tiêu, đầy bụng, buồn nôn, hoặc nôn mửa, đặc biệt khi nhiễm các loại giun tròn (giun đũa, giun tóc, giun móc, giun mỏ, giun kim, giun lươn),
nếu nhiễm một lượng lớn giun có thể gây nên nhiều biến chứng như tắc ruột, chảy máu, viêm tắc đường mật, loét tiêu hóa.
Một số triệu chứng khác ít gặp hơn là chán ăn, mất ngủ, ngứa, dị ứng và có dấu hiệu ấu trùng di chuyển (giun kim, giun lươn, sán lá gan lớn,…)
hoặc có hiện tượng ký sinh và gây triệu chứng lạc chỗ;

- Khoảng 76-92% đối tượng nhiễm amíp không thấy có triệu chứng, nhưng vẫn có thể thải bào nang ra ngoài môi trường và gây bệnh cho nhiều người; khoảng 10% số người bị nhiễm đơn bào sẽ xâm nhập vào tổ chức niêm mạc ruột, gây rối lọan tiêu hóa, nhất là đi lỏng, kế tiếp khó chịu ở bụng, tiêu chảy xen kẽ hoặc táo bón, nếu mức độ nặng sẽ kèm theo sốt, đại tiện phân lẫn máu mũi hoặc lẫn chất nhày, hoặc gây ra một số triệu chứng ở phổi, gan và một số cơ quan khác như não, lách, thận;

- Nhiễm sán dây sẽ mắc các triệu chứng thường gặp gồm có chứng đau bụng, chán ăn, đầy bụng, sôi bụng, ăn uống không tiêu, rối loạn chất phân, dợm miệng, buồn nôn.
Đốt sán dây lợn có thể được nở ra trong ruột non, để di chuyển vào cơ thể hoặc đến các tổ chức trong nội tạng gây ra bệnh ấu trùng sán lợn, vị trí thường gặp là ấu trùng là nằm trong lớp dưới da và bắp cơ, có thể không cho thấy các triệu chứng; nhưng nếu như nang trùng đóng kén tại não, mắt hoặc tủy sống sẽ đưa đến những triệu chứng, biến chứng và di chứng thần kinh nghiêm trọng;

- Nếu nhiễm sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis, Opisthorrchis viverinii hoặc sán lá gan lớn Fasciola hepatica và Fasciola gigantica nếu ở mức độ nhẹ thì triệu chứng không hoặc khó nhận ra, đa số biểu hiện triệu chứng ca bệnh đều là khi bệnh chuyển sang quá trình nhiễm mạn tính (thường sau 4 tháng).
Triệu chứng hay gặp là chán ăn, ăn không ngon, đầy bụng, khó tiêu, ậm ạch, suy dưỡng sụt cân 2-5 kg/ 2 tháng, nhức đầu, đau cơ, chóng mặt, rối loạn tiêu hóa (phân lỏng và đặc xen kẻ nhau), đau vùng bụngthượng vị-mũi ức hoặc hạ sườn phải và chauffard-rivet, đôi khi đau tức từng cơn.
Trường hợp nhiễm lượng sán nhiều có thể dẫn đến tắc mật gây nên triệu chứng vàng da, vàng mắt, ngứa, tiêu hóa kém, viêm hệ đường mật, gây abces gan,…Bệnh diễn biến càng mạn tính mà không có biện pháp can thiệp nào sẽ đưa đến tạo sỏi mật (cấu trúc nhân của sỏi), xơ gan hoặc thậm chí ung thư đường mật (điều này đã được các nhà khoa học chứng minh có mối liên quan giữa nhiễm sán lá gan nhỏ với ung thư đường mật);

3. Một số phương pháp phát hiện bệnh

- Lấy mẫu phân tươi xét nghiệm để tìm trứng giun, sán, kén, bào nang đơn bào hoặc giun sán con trưởng thành;

- Nuôi cấy phân nhằm phát hiện ấu trùng giun lươn;

- Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán, đặc biệt là phương pháp Western Blott và ELISA phát hiện kháng nguyên hoặc kháng thể của ký sinh trùng (một số quóc gia có sử dụng cả kỹ thuật PCR để chẩn đoán bệnh);

- Xét nghiệm công thức máu toàn phần, đáng chú ý là số lượng và tỷ lệ bạch cầu ái toan và qua đó có thể đánh giá mức độ về các thông số huyết học.

4. Thái độ xử trí

Tùy theo mỗi loại bệnh ký sinh đường ruột sẽ có phương cách điều trị hoàn toàn khác nhau, có thể thầy thuốc điều trị theo phương pháp y học cổ truyền hoặc thuốc sổ hoặc diệt giun sán;

Điều quan trọng là chúng ta nên đếnkhám và điều trị, uống thuốc theo sự hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa, không nên tự ý dùng một số bài thuốc cổ phương trong dân gian truyền miệng nhau, nguy cơ dẫn đến di ứng thuốc là khó tránh khỏi.

5. Biện pháp phòng tránh

- Chú ý vệ sinh cá nhân, thường xuyên cắt móng tay, nhất là trẻ em, giáo dục sức khỏe cho mọi người nên có thói quen rửa tay trước và sau khi ăn uống, sau khi đi tiểu và đại tiện;

- Các trường mẫu giáo và trường tiểu học phải định kỳ thực hiện cuộc kiểm tra sàng lọc ký sinh trùng để phát hiện sớm bệnh ký sinh đường ruột ở trẻ em và điều trị bằng thuốc hợp lý. Nếu xuất hiện trường hợp nghi mắc bệnh ký sinh trùng đường ruột, hãy chủ động khám và điều trị triệt để;

- Không nên ăn sống mà phải xử lý vệ sinh, khử trùng và nấu chín đối với hoa quả, rau xanh, thịt lợn, thịt bò, cá sống làm gỏi,…trước khi ăn. Nước uống cần được đun sôi mới bảo đảm an toàn;

- Không nên đi tiểu, đại tiện bừa bãi, không sử dụng phân tươi để bón phân; phân người phải được xử lý trong bồn phân hủy, để tránh gây ô nhiễm nguồn nước. ( nguồn: viện sốt rét ký sinh trùng trung ương )

- Người nhiễm bệnh ký sinh trùng đường ruột đại đa số có triệu chứng biểu hiện nhẹ hoặc không biểu hiện gì nhưng có “tiềm năng” lây nhiễm lớn và điều quan trọng là mầm bệnh được đào thải qua phân từng đợt, nếu chúng ta không chú ý mà chỉ khám xét nghiệm một lần e rằng sẽ bỏ sót ca bệnh;

- Thực hiện chiến dịch sổ giun, sán định kỳ (cần thiết).

theo http://www.benhhoctieuhoa.com

Read On 0 nhận xét
 

MedicineNet Daily News

Medscape Medical News Headlines

WebMD Health


About me | Author Contact | Powered By Blogspot | © Copyright  2008