Huyền sâm: Có tính mát, trị sốt nóng, mẩn ngứa, mụn nhọt, rôm sẩy.
Bài thuốc: Huyền sâm, sài đất, thổ phục linh, mỗi vị 10g, cam thảo 4g; sắc uống ngày 1 thang. Hoặc tất cả nấu thành cao, trừ thổ phục linh tán bột, trộn đều với đường kính vừa đủ chế thành dạng cốm.
Ké đầu ngựa. |
Ké đầu ngựa: Thành phần có hoạt tính là xanthinin. Có tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm, chống dị ứng, hạ sốt, lợi tiểu, an thần. Được dùng chữa lở ngứa, mày đay, mụn nhọt. Ngày dùng 6-12 quả, hoặc 10-16g cành và lá dưới dạng thuốc sắc, viên hoặc cao.
Bài thuốc: Lá ké đầu ngựa tán bột 8g, uống với nước nấu đậu đen. Phối hợp dùng ngoài lá ké đầu ngựa, lá bồ hòn, lá nghể răm, lá thuốc bỏng, nấu nước để xông và tắm.
Kim ngân: Có vị ngọt, tính mát, nhân dân một số nơi dùng nấu nước uống thay nước chè. Kim ngân được dùng trị rôm sẩy, mụn nhọt, lở ngứa.
Bài thuốc: Hoa kim ngân 6g, cam thảo 3g, nước 300ml, sắc còn 100ml, chia làm 2 lần uống trong ngày.
Kim ngân. |
Mướp đắng: Có vị đắng, tính lạnh, không độc. Ngoài công dụng làm thức ăn, mướp đắng được dùng làm thuốc mát tắm cho trẻ em trừ rôm sẩy, thuốc sắc uống chữa sốt, chữa ho.
- Thuốc tắm cho trẻ em trị rôm sẩy: Mướp đắng 2-3 quả, nấu với nước để tắm cho trẻ em, ngày 1 lần.
- Chữa chốc đầu trẻ em: Dùng lá đào nấu nước gội đầu, rồi giã nát quả cùng với hạt mướp đắng để bôi.
Núc nác: Có vị đắng, tính mát, được dùng chữa bệnh dị ứng, lở ngứa da.
Chữa mụn nhọt, chốc lở, mẩn ngứa, mày đay: Vỏ núc nác 30g, thổ phục linh 40g, ké đầu ngựa, cam thảo dây, mỗi vị 15g. Sắc uống ngày 1 thang.
Rau má: Là một vị thuốc mát, vị ngọt, hơi đắng, không độc, còn được dùng làm rau ăn và nghiền làm nước sinh tố rất mát và bổ.
Chữa rôm sẩy, mẩn ngứa: Hàng ngày ăn rau má trộn dầu giấm. Hoặc dùng rau má tươi, giã nát, vắt lấy nước, thêm đường uống hằng ngày.
Sài đất: Nhân dân một số nơi dùng cây sài đất làm rau ăn. Sài đất dùng trị rôm sẩy, viêm tấy, mụn nhọt. Dùng sài đất tươi 300g, nấu với nước để tắm. Hoặc dùng 100g sài đất tươi, giã với ít muối, thêm 100ml nước đun sôi để nguội, rồi vắt lấy nước uống làm 2-3 lần trong ngày. Bã đắp vào chỗ sưng tấy.
Dùng riêng sài đất hoặc phối hợp với bồ công anh, kim ngân và ké đầu ngựa.
Sắn dây: Bột lọc (tinh bột) sắn dây dùng để pha nước uống với đường cho mát, giảm nhiệt, đỡ rôm sẩy.
Bột rắc lên những nơi mồ hôi ẩm ướt, ngứa, rôm sẩy: Bột lọc sắn dây 5g, thiên hoa phấn (tán bột mịn) 5g, hoạt thạch 20g, trộn đều, rắc lên nơi ẩm ngứa rôm sẩy.
Đậu đen: Có tính mát.
Chữa dị ứng, mẩn ngứa, mụn nhọt: Đậu đen sao nhỏ lửa đến khi ruột bên trong có màu vàng đậm. Lấy 50-100g sắc uống.
Đinh lăng: Lá đinh lăng chữa dị ứng, mẩn ngứa, mụn nhọt, sưng tấy. Ngày dùng 4-6g rễ hoặc 30-50g thân cành, hoặc 80g lá đinh lăng sao vàng sắc uống.
Thổ phục linh: Có tác dụng trị bệnh mụn nhọt, lở ngứa, dị ứng da.
Chữa dị ứng, mẩn ngứa, mày đay: Thổ phục linh 20g, liên kiều, ké đầu ngựa, kim ngân hoa, cam thảo dây, mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa mụn nhọt, chốc lở: Thổ phục linh, kim ngân, bồ công anh, mỗi vị 12g, mã đề, cam thảo nam mỗi vị 10g, ké đầu ngựa, hoa kinh giới, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
GS. Đoàn Thị Nhu |
(Theo SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG)
Hàng nǎm mỗi độ xuân về, đất trời giao hòa, vạn vật thay đổi, cũng là lúc khí hậu chuyên dần từ khí lạnh của mùa đông sang khí trời ấm áp của mùa xuân. Từ tiết đại hàn 20/1 nǎm 200 1 ngày thứ 13 sau tiết xuân phân 2/4 nǎm 200 1 . Vào thời gian này, khí âm bắt đầu giảm, khí dương bắt đầu sinh, khí hậu lúc nóng lúc lạnh, độ ẩm cao trên 80%. Vào thời gian này những người cao tuổi, cơ thể suy yếu tiền sử có HA, HA không klểrn soát được. thường mắc các chứng bệnh về tuần hoàn và hô hấp.
Liên hệ bệnh trúng phong của y học dân tộc và bệnh rối loạn tuần hoàn não của y học hiện đạiI. Mở ĐầU:
Trong các rối loạn tuần hoàn, rối loạn tuần hoàn não là điển hình nhất.
Bàn về thời khí nǎm Tân Tỵ và Hải Thượng Lãn ông nói: "Sáu nǎm Tân, trong đó có nǎm Tân Ty, thủy hỏa bất cập , thổ vượng quá hóa thành thấp, nǎm Tân Tỵ thủy đại hư, thổ lấn át, thổ với hỏa đồng hóa gọi là: 'Hóa khí dụng sự'.
Rối loạn tuần hoàn não cụ thể là tai biến mạch máu não để lại di chứng nặng nề về thần kinh, tâm
thần y học dân tộc thường xếp vào loại trúng phong. Tùy tưng trường hợp mà phong có thể vào tạng, phủ, kinh lạc v. v. . .
II. RốI LOạN TUầN HOàN NãO THEO Y HọC HIệN ĐạI
1 . Tai biến mạch máu não là một thể của rối loạn tuần hoàn não. Bệnh xuất hiện đột ngột. Bệnh nhân không tử vong cũng để lại di chứng nặng nề. ở người cao tuổi tính chất trầm trọng của bệnh càng tǎng. Lâm sàng, tai biến mạch máu não chia làm 3 loại:
- Chảy máu não.
- Nhũn não (còn gọi là nhồi máu não do tắc hoặc nghẽn mạch).
- Loại hỗn hợp vừa nhũn não vừa chảy máu não.
Ngoài 3 loại trên còn loại tai biến mạch máu não tạm thời, hoặc nhưng không được coi thường vì hay tái phát, dần dần dẫn tới tới biến mạch máu não điển hình.
2. Biểu hiện chung của tai biến mạch máu não :
a. Xuất hiện đột ngột:
- Bệnh nhân đang đứng hoặc ngồi, đột nhiên ngã gục, hiện tượng này xảy ra.
- Bị gió lùa, tắm lạnh, uống rượu, xúc động mạnh đôi khi còn xuất hiện các triệu chứng:
Nhức đầu: Nhức đầu cường độ ngày càng tǎng diển hình là cơn hôn mê. Bệnh nhân ngã và hôn mê. Hôn mê có thể nông hoặc sâu. Đôi khi trên lâm sàng có biểu hiện giảm ý thức hoặc bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo.
b. Dấu hiệu liệt 1/2 người.
- Liệt 1/2 người là dấu hiệu rất quan trọng. Dấu hiệu này xuất hiện ngay từ đầu, hoặc xuất hiện từ từ.
- Trên lâm sàng đôi khi xuất hiện các triệu chứng nếu mỏi một bên, nói ngọng mồm hơi méo, dần dần triệu chứng liệt 1/2 người rõ.
c. Dấu hiệu thần kinh khác:
- Cơn co giật, cơn co cứng. Buồn bã tay chân, rối loạn giác quan, mờ mắt, ù tai không nghe được.
d. Biểu hiện toàn thân:
- Nhịp thở không đều, khò khè, nhiệt đọ ban đầu giảm, sau đó tǎng, chân tay lạnh, vã mồ hôi.
- Mạch nhanh, HA giao động, có thể tụt hoặc tǎng vọt.
- Rối loạn thần kinh thực vật: da mặt đỏ hoặc tím.
e. Tiến triển của bệnh:
Thường phức tạp, khó lường trước, nhìn chung xấu, tử vong trong những ngày đầu.
3. Tiên lượng với bệnh nhân tai biến mạch máu não:
Đứng trước một bệnh nhân tai biến mạch máu não có dấu hiệu gì để tiên lượng bệnh diễn biến xấu:
- Liệt nặng, hôn mê sâu.
- Co cứng
- Bệnh nhân đang hôn mê có co giật ở một bên hoặc hai bên .
III. QUAN ĐIểM CủA YHDT Về TAI BIếN MạCH MáU NãO
- Hôn mê, cấm khẩu, bán thân bất toại y học dân tộc gọi là chứng trúng phong.
Theo Kỳ Bá chia làm 4 loại:
1. Thiên khô: Tê liệt 1/2 người.
2. Phong phì: Mình không đau, 2 tay buông xuôi.
3. Phong ý: Có lúc như thiêm thiếp ngủ, lúc hoảng hốt, bàng hoàng, không biết gì.
4. Phong ý: phong thắng đau khắp người.
- Hàn thắng đau dữ dội.
- Thấp thắng đau kèm theo tê liệt
A Phong trúng vào cơ thể
1. Phong trúng tạng:
- Tâm bị: Bệnh nhân hay nằm ngửa, phát nóng, rưỡi khô cứng, sắc mặt đo , mất tiếng.
- Can bị: Người bệnh choáng váng, cất đầu không được, sườn đau, mắt trợn ngược, tính tình giận dữ, chân tay co quắp.
- Tỳ bị: Bụng đầy chướng, da vàng, chân tay yếu sức, cơ máy.
- Phế bị: Ngực đầy tức, hen suyễn, phiến táo, mồ hôi ra, mắt hay nhìn, ít nói.
* Thân bị: Phù nề, lưng mỏi, xương đau.
2. Nguyên nhân ngoạI phong
- Nguyên nhân bên ngoàI là yếu tố thuận lợi cho nguyên nhân nội nhân phát bệnh vì: Cơ thể suy yếu tấu lý sơ hở, tác nhân do lục khí xâm nhập vào cơ thể, lục khí đó là phong hàn thử thấp táo hoả.
- Sáu thứ khi trên xâm nhập vào cơ thể gọi là ngoạI nhân. NgoạI nhân và nội nhân kết hợp với nhau làm cho tính chất của bệnh càng trầm trọng hơn. Do đó khi chẩn đoán và đIều trị, người thày thuốc cần phân biệt cho được đau là gốc đau là ngọn. Có như vậy việc điều trị sẽ đạt hiệu quả cao.
C. Một số quan điểm trúng phong của người xưa
1. Tác giả: Lưu Hà Giang
Các chứng phong, dù ở thể hôn mê co cứng tê liệt đều không phải là phong. Riêng ở can khía thực, cũng không phải là ngoại phong mà do nội phong. Phần nhiều vì: lao động nghỉ ngơi bất thường, dẫn tới tâm hoả tạo thịnh, thận thuỷ suy kiệt, âm hư, dương vượng, mà nhiệt khí bốc lên, làm tâm thần không nguôi, gân cốt bất dung mà ngã vật xuống, không biết gì, hoặc giận mừng, sầu muộn, thươnh xót, sợ hãi, 5 chí quá cực gây lên.
Nếu ta cứ nghĩ đến phong là ngọn mà quên mất gốc của phong là hoả là chưa đủ.
2. Tác giả: Lý Đông Viên
Trúng phong không phải là nguyên nhân bên ngoài mà gốc của phong là khí.
Phần lớn những người trên 40 tuổi, khí huyết đã suy yếu hoặn nhân thất tình làm tổn thương đến tâm khí hoặc ở người béo trệ là hình thịnh khí suy do đó nguồn gốc của phong là khí.
3. Tác giả: Chu Ngạn Tu
- Phương tây bắc khí hàn, khi bị bệnh thường do phong hàn
- Phương tân nam khí ôn có nhiều thấp khi bị bệnh phần lớn là thấp thổ sinh đờm, đờm sinh nhiệt, nhiệt sinh phong.
4. Tác giả Hứa Học Sĩ:
- Bạo nộ thương âm, bạo kỷ thương dương, ưu sầu nhiều, khí hư huyết nghịch.
ở lứa tuổi cao chân thủy suy liệt, nếu quá giận dữ, càn hỏa động bốc lên, làm cho mình nóng, có đờm. Đôi khi ở tuổi thanh niên cũng bị bệnh là do: sắc dục quá độ, chân âm thủy khuy tổn, không đủ chế hỏa, hoặc phụ nữ sau khi sinh, huyết bị suy tổn dẫn tới hỏa bốc lên làm cho người bệnh bị hôn mê.
IV. QUAN ĐIểM TRúNG PHONG HIệN NAY
Hiện nay do ánh sáng của Y học hiện đại có nhiều thầy thuốc y học hiện đại nghiên cứu và làm công tác y học dân tộc. Để rút gọn dễ nhớ và dễ làm: tác giả Giáo sư Nguyễn Tài Thu cho Trung phong ở những thể sau:
1. Phong trúng tạng phủ
a/ Chứng bế, thường thực chứng
b/ Chứng thoát, thường hư chứng
2 . Trúng phong kinh lạc:
a/ Trúng kinh: có biểu hiện tê, hệt.
b/ Trúng lạc: méo miệng, mắt lệch.
Sau đó đề ra phương thức chẩn mạch, xác định nguyên nhân và phân biệt bệnh nặng, nhẹ.
- Mạch phù huyền có lực là phong.
- Phù hoạt là đàm.
- Phù sác có lực là hỏa.
- Trầm huyền có lực là khí.
Bệnh nhẹ: thường người bệnh mạch phù hoạt hoặc sác kèm theo có thần, dễ khỏi.
Bệnh nặng mà mạch huyền phù sác, Hồng Đại là bệnh khó chữa.
Bệnh tiến triển nặng mà hai bộ xích không có mạch là hạ nguyên khí đã tắt
V. KếT LUậN
Để thay cho phần kết luận chúng tôi nêu một số vấn đề về thời khí nǎm Tân Ty:
- Bàn về thời khi nǎm Tân Tỵ và bệnh tật có thể phát sinh: Hải Thượng Lãn ông nói: "Sáu nǎm tân trong đó có nǎm Tân Tỵ, thủy hỏa bất cập, thổ, thịnh hóa thành thấp do đó khi điều trị cần bổ Thận trừ thấp.
Bổ thận: châm bổ, Thân du, Thái khê, Nhiên đốc. Trừ thấp: Kiện tỳ. Trừ thấp, Bổ Túc Tam lý, Tam âm giao, Thái bạch.
Nǎm Tân Tỵ, Thủy đại hư, Thổ lấn át, Thổ với Hỏa đồng hóa gọi là "Hỏa khí dụng sụ ".
Từ tiết đại hàn 20/1/2001 đến xuân phân 1 9/3/200 1 thời gian này, khí dương minh táo kim là khách khắc khí khuyết âm can mộc là chủ. Khách khắc chủ là thuận, do đó khí của Dương minh đại trường và Vị xâm nhập vào Can và Tâm bào. Khi điều trị cần tả các huyệt kinh Đại trường và Kinh vị, châm bổ các huyệt ở kinh Can và Tâm bào.
Mùa xuân nǎm Tân Tỵ khí của phong thất là chủ yếu nhưng điều trị ta cần lưu tâm đến táo nhiệt. Sáu nǎm tân trong đó có nǎm Tân Tỵ. Thủy bất cập. Trong ngũ hành, Thủy sinh mộc. Mẹ nhược con suy không khống chế được thổ do đó thổ khắc thuỷ mạnh. Thổ thịnh sẽ xuất hiện mưa, ẩm thấp nhiều. Người ta quan hệ với thiên nhiên gọi là thiên nhân hợp nhất. Do vậy giai đoạn này sẽ xuất hiện các chứng "tê, đau, mệt mỏi, nặng nề, hoa mắt và bệnh rối loạn tuần hoàn não và bệnh về hô hấp".
BS. Phạm Vǎn Giao
http://www.cimsi.org.vn |
(Theo http://www.cimsi.org.vn)
Nhưng nói chung xơ gan tiên lượng rất xấu. Tuy đã điều trị ở bệnh viện, nhưng tỷ lệ tử vong khá cao. Vì vậy việc phòng bệnh để tránh mắc bệnh viêm gan, dẫn đến xơ gan là rất quan trọng, cần hiểu biết để phòng tránh.
Xơ gan thường tiếp theo sau một viêm gan mạn tính. Rất khó xác định được lúc nào viêm gan mạn đã chuyển sang xơ gan nếu không quản lý bệnh nhân, theo dõi định kỳ và nhất là soi ổ bụng hoặc sinh thiết.
Cổ trướng thường được coi là một biểu hiện mất bù của xơ gan, tiến triển dần dần. Khi to nhiều, bệnh nhân mới để ý đến. Nước cổ trướng màu vàng chanh, còn nước màu hồng hay đỏ là có ý nghĩa xấu: xơ gan đã ung thư hóa, hoặc có áp lực tĩnh mạch cửa tăng nhiều, lách to, cứng chắc, có khi đến tận rốn.
Theo y học cổ truyền, xơ gan cổ trướng là do viêm gan, sốt rét, uống rượu, kém dinh dưỡng. Căn cứ vào triệu chứng và phương pháp chữa, các thầy thuốc Đông y chia làm 3 thể bệnh với phép điều trị như sau:
1. Thể xơ gan do can uất, tỳ hư, can tỳ bất hòa
Triệu chứng: Sắc mặt xạm tối, đầu choáng, mệt mỏi, ăn kém, đau vùng gan, tức vùng thượng vị, ợ hơi, bụng trướng, đại tiện lỏng, rêu lưỡi mỏng, mạch huyết tê. Phép chữa xơ can kiện ty:
Bài 1: Rau má 12g, mướp đắng (khổ qua) 12g, thanh bì, chỉ thực, uất kim, hậu phác, mỗi vị 8g; ý dĩ, hoài sơn, biển đậu, đinh lăng mỗi vị 12g. Nước 3 bát, sắc còn 1 bát, uống lúc bụng đói, uống ấm.
Bài 2: Đan sâm 16g, huỳnh kỳ 10g, bạch phục linh 10g, bạch truật 12g, bạch thược 10g, nhân trần 20g, chi tử 8g, ngũ gia bì 8g, đại phúc bì 6g, sài hồ 10g, ý dĩ 16g, cam thảo 6g, đại táo 6g, gừng khô 6g. Sắc uống như trên ngày một thang.
2. Xơ gan do khí trệ huyết ứ:
Triệu chứng: đau nhiều vùng mạng sườn, bụng trướng, người gầy, lách to, môi lưỡi tím, mạch tế. Phép chữa: hành khí hóa ứ:
Bài 1: Kê huyết đằng 12g, cỏ nhọ nồi 12g, uất kim 8g, tam lăng 8g, nga truật 8g, chỉ xác 8g, sinh địa 12g, mẫu lệ 16g, quy bản 10g. Sắc uống ấm ngày một thang.
Bài 2: Bạch thược 12g, đương quy 8g, xuyên khung 12g, đan sâm 12g, hồng hoa 8g, đào nhân 8g, diên hồ sách 8g. Sắc uống ngày một thang. Nếu lách to, thêm tam lăng 12g, nga truật 12g, mẫu lệ 10g, mai ba ba 20g.
Bài 3: Đào nhân 12g, hồng hoa 8g, đương quy 12g, xích thược 12g, đan sâm 22g, tam lăng 8g, nga truật 8g, hương phụ chế 8g, chỉ xác 8g. Sắc uống ngày một thang.
3. Thể xơ gan cổ trướng: Thể này có 3 loại:
Âm hư thấp nhiệt: Thể này thường kèm theo chảy máu. Triệu chứng: sắc mặt vàng tối, chảy máu cam, chảy máu chân răng, chân phù, sốt hâm hấp, hoặc sốt cao, phiền táo, miệng khát, họng khô, lợm giọng, tiểu tiện đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch huyền tế sác. Phép chữa: thanh nhiệt, hóa thấp, dưỡng âm, lợi thủy:
Bài 1: Nhân trần 20g, thạch hộc 20g, sa sâm 12g, sinh địa 12g, xa tiền 12g, trạch tả 12g, bạch mao căn 12g, hậu phác 6g, trần bì 6g, bán hạ chế 6g, chi tử 8g, nước 3 bát sắc còn 1 bát, uống trong ngày một thang.
Bài 2: Thục địa 12g, sơn thù 8g, hoài sơn 12g, trạch tả 8g, đơn bì 8g, phục linh 8g, bạch truật 12g, đương quy 8g, địa cốt bì 12g, bạch mao căn 20g.
Tỳ thận dương hư: Triệu chứng: mệt mỏi, ăn kém, bụng trướng, chân phù, tiểu tiện ít, đại tiện lỏng, sợ lạnh, sắc mặt vàng hoặc xanh nhợt, chất lưỡi nhạt hoặc bệu, rêu trắng mỏng, mạch trầm tế. Phép chữa: ôn thận tỳ dương, hành thủy.
Bài 1: Phụ tử chế 12g, nhục quế 4g, chỉ xác 6g, mộc hương 6g, bạch truật 12g, ý dĩ 16g, trạch tả 12g, hoài sơn 12g, kê nội kim 4g, xa tiền tử 12g.
Bài 2: Phụ tử chế 12g, quế chi 6g, gừng khô 6g, phục linh 12g, hậu phác 6g, trạch tả 12g, đại phúc bì 12g, huỳnh kỳ 12g, xuyên tiêu 6g.
Thể cổ trướng nhiều, thủy khí tương kết: Triệu chứng: cổ trướng tăng nhanh, không nằm được, tiểu tiện ít, đại tiện không thông, mạch huyền sác. Phép chữa: công hạ, trục thủy. Chú ý theo dõi mạch, huyết áp tránh trụy mạch do mất nước và điện giải quá nhiều.
Bài 1: Cam toại nướng 6g, thương lục 6g, đại phúc bì 12g, đại hoàng 12g, hắc sửu 8g, úc lý nhân 8g, nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống nguội sáng chiều.
Bài 2: Nguyên hoa 8g, cam toại 8g, đại kích 8g, phơi khô tán bột. Ngày uống 2g vào buổi sáng với nước đại táo.
Bài 3: Cây lá trạch lan 30g, rễ muồng trâu (sao rượu) 30g, rễ bồ ngót 30g, lá tía tô 10g, hậu phác 5g, lá dâu 12g. Nước vừa đủ, sắc còn 1/2 uống ấm trong ngày.
Bài 4: Hương phụ chế 12g, vỏ quýt sao 12g, vỏ cau sao 6g, hậu phác 6g, cam thảo 3g, nước vừa đủ, sắc uống như trên.
Bài 5: Hoàng cầm 12g, sơn chi tử 12g, nhân trần 12g, đình lịch tử 8g, long đờm thảo 8g. Nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống ấm trong ngày một thang.
4. Món canh, cháo chữa xơ gan cổ trướng
Cá chép nấu xích tiểu đậu: Cá chép 1 con 0,5 - 1kg, đánh vảy, bỏ mang và ruột, đậu đỏ 120g và trần bì (vỏ quýt) 6g, rửa sạch, nhồi 2 vị vào bụng cá. Nước vừa đủ, đun to lửa cho sôi, rồi nhỏ lửa, nấu tới nước sánh là được. Công dụng: thanh nhiệt, giải độc, lợi thủy, tiêu thũng, trị xơ gan cổ trướng vàng da, viêm túi mật, viêm tuyến tụy. Ngày ăn 2 lần, ăn cá, uống canh.
Canh thịt lợn mao căn: Mao căn, rễ cỏ tranh (rễ khô 50g, rễ tươi 150g), cắt từng đoạn ngắn rửa sạch, thịt lợn nạc 350g, rửa sạch thái chỉ. Hai thứ cho vào nồi, nước vừa đủ, nấu chín, cho gia vị là được. Công dụng: ích khí, thanh nhiệt, lợi thấp, thoái hoàng. Trị cổ trướng vàng da, mệt mỏi, cơ thể suy nhược.
Cháo tạm trúc diệp, đậu đỏ: tạm trúc diệp 100g, rửa sạch, cắt nhỏ, đậu đỏ loại nhỏ 50g, gạo nếp 100g đãi sạch, ngâm trương cho vào nồi, nước 1 lít, đun lửa to cho sôi, khi hạt gạo nếp sắp nở mới cho tạm trúc diệp vào, nấu chín là được. Công dụng: thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, cổ trướng, chia ngày ăn 2 - 3 lần.
Cháo ý dĩ, phục linh: Bột bạch phục linh 20g, xích tiểu đậu 50g, ý dĩ (hạt bo bo) 100g. Ngâm xích tiểu đậu nửa ngày rồi cho vào nấu cháo cùng ý dĩ, khi chín nhừ thì cho bột phục linh vào nấu tiếp; sau đó cho ít đường đỏ, ăn trong ngày. Công dụng chữa viêm gan, xơ gan vàng da.
Cháo táo tàu, ngó sen: táo tàu 10 quả (bỏ vỏ và hạt), hạt bo bo (ý dĩ) 50 - 100g, bột ngó sen 15g. Nấu hạt bo bo cho chín, mềm, cho táo tàu vào, đun sôi tiếp, sau đó cho bột ngó sen vào (bột hòa tan cho đều với nước sôi), đun sôi lại lần nữa là được, chia 2 lần ăn trong ngày. Công dụng: an thần, lợi thủy, trừ xơ gan cổ trướng.
Cháo nhân trần: nhân trần 60g, gạo lức 100g. Nhân trần rửa sạch đun lấy nước, bỏ bã, cho gạo lức vào, đã vo sạch, đun to lửa cho sôi, sau đun nhỏ lửa, nấu cháo loãng, có thể cho ít đường đỏ, ăn ngày 2 - 3 lần. Ăn liền 7 - 10 ngày là một liệu trình. Công dụng: trị xơ gan cổ trướng, vàng da cấp. Hoặc thay nhân trần bằng chi tử nhân 30g, gạo lức 100g. Nấu ăn như cháo nhân trần. Công dụng: trị viêm gan vàng da, thổ huyết, lỵ ra máu, tiểu ra máu, họng đau, bệnh lậu.
Ăn cá chép ốp thấm ba đậu: cá chép 1 con to 0,5 - 1kg, dùng dao mổ dọc 2 bên sống lưng thật sâu, ba đậu 40 hạt, lột bỏ vỏ rồi nhét vào 2 bên dọc sống lưng cá cho đầy, ốp cá lại, dùng giấy bạc bọc ngoài 3 lớp, ràng rịt kỹ, để lên lửa than, nướng chín, rồi bỏ hết ba đậu, chỉ ăn cá chép với nước cơm sôi, ăn nhạt, kiêng mắm, muối. Trong ngày sẽ đi đại tiện, tống hết vật tanh hôi. Bụng xọp dần. Nếu đi đại tiện nhiều thì uống nước đun sôi để nguội sẽ đi bình thường.
Ăn cá chép, tỏi, đậu đỏ: Cá chép tươi sống khoảng 500g, mổ thịt, để cả vảy, bỏ ruột. đậu đỏ nhỏ hạt 100g, tỏi vài nhánh. Đậu nấu chín, nhét tỏi và đậu vào bụng cá, gói cá bằng lá chuối tươi, buộc kỹ rồi vùi vào tro nóng có than hồng, khi chín dừ cá lấy ra ăn nhạt, ngày ăn một lần, ăn 3 - 6 ngày liền.
Các loại nước uống:
- Chi tử 12g, nhân trần 12g, nước 600ml, sắc còn 200ml, cho chút đường chia 3 lần uống trong ngày.
- Chi tử 16g, hoàng bá 12g, cam thảo 4g, sắc nước uống ngày một thang.
- Mẫu đơn bì 8g, rễ cỏ tranh 20g, thục địa, hoài sơn, bạch truật, địa cốt bì mỗi vị 12g, sơn thù, trạch tả, phục linh, đương quy mỗi vị 8g, sắc uống ngày một thang.
- Cây chó đẻ răng cưa 100g, sắc nước 4 lần. Lần 1: sắc với 3 bát nước lấy một bát thuốc. Ba lần sau đều sắc với 2 bát nước lấy nửa bát thuốc. Trộn chung 4 nước, thêm ít đường đỏ, đun sôi cho tan, chia 6 lần uống trong ngày. Khi hết triệu chứng xơ gan, vàng da, thôi không uống thuốc chữa.
- Nhân trần, bồ công anh, uất kim mỗi vị 30g, nghệ vàng 12g, sắc uống ngày một thang.
- Nhân trần 20g, quả dành dành 10g, đại hoàng 5g, sắc uống ngày một thang.
- Nhân trần 100g, bồ công anh 50g, đường đỏ 30g, nước 600ml, sắc với nhân trần và bồ công anh còn 400ml, cho đường vào là được. Chia 2 lần uống trong ngày.
Thuốc thoa ngoài: Rễ trầu già 10g, bồ kết 5g, long não 3g, gừng khô 4g, tỏi 1 củ nhỏ. Tất cả giã nát, ngâm với rượu trong một tuần. Dùng thoa bụng, ngày 3 lần, nhiều hơn càng tốt.
Nguồn gốc
Nội dung
Phần thứ nhì: Chuẩn bị
Điều kiện để luyện
Trường hợp không nên luyện Dịch Cân Kinh
Tư thức dự bị lúc mới luyện
Hiệu năng
Chủ trị
Thu công
Phần thứ ba: 12 thức Dịch Cân kinh
Phần thứ tư: Tổng kết
Tài liệu Dịch Cân kinh Của nhà văn Vũ Hạnh sưu tầm.
Mobipocket Reader cho phép xem các tập tin có định dạng PRC, PDB...
Theo Edu.vnTheo Edu.vn
Liên kết để bạn tải xuống máy:
http://www.download.com.vn/Data/Soft/2008/07/03/557_bai_thuoc_dan_gian.rar
Đến năm 1978, trên cơ sở thực tiễn lâm sàng “ Điểm huyệt liệu pháp” đã qua 20 năm, chữa nhiều loại bệnh, tăng thêm được nhiểu thủ pháp chữa trị, xác minh được một số vấn đề có tính lý luận đã gặp trên lâm sàng, làm cho một liệu pháp bất luận là cơ sở lý luận, hay là ở vận dụng thủ pháp và thực tiễn lâm sàng đều rất là phong phú so với sách trước.
Nguồn phát hành:
Nxb Thiểm tây Khoa học Kỹ thuật
Bộ phận dùng làm thuốc của gấc: Hạt gấc đã bóc bỏ áo hạt, phơi hay sấy khô; dầu gấc được ép từ màng hạt đã phơi hoặc sấy khô; rễ thu hái vào mùa đông rửa sạch và phơi khô.
Dầu gấc dùng kèm với một số vị thuốc kháng khuẩn đặc hiệu sẽ chữa được bệnh trứng cá có nhân. Dầu gấc có tác dụng nhuận tràng, thích hợp cho người táo bón.
Người lớn mỗi ngày dùng 10-20 giọt, chia làm 2 lần, uống trước bữa ăn chính. Trẻ em 5-10 giọt mỗi ngày.
Hạt gấc dùng theo kinh nghiệm nhân dân chữa mụn nhọt, quai bị, sưng vú, tắc tia sữa, trĩ, lòi dom. Có nơi còn dùng chữa sốt rét có báng; chủ yếu dùng ngoài, mỗi ngày 1-2 g.
Các bài thuốc:
- Gốc dây gấc, đơn gối hạc, mộc thông, tỳ giải mỗi vị 15 g, sắc uống hoặc ngâm rượu xoa bóp cũng chữa phong thấp, sưng chân.
- Nhân hạt gấc mài với nước, bôi chữa mụn nhọt, ghẻ lở:
- Nhân hạt gấc giã với một ít rượu 30-40 độ, đắp chữa vú sưng đau.
- Hạt gấc giã nát, thêm một ít giấm, gói bằng vải, đắp chữa trĩ, lòi dom, để suốt đêm.
- Hạt gấc và vảy tê tê hai vị bằng nhau, sấy khô tán bột, mỗi lần dùng 2 g hòa với rượu ấm uống lúc đói để chữa sốt rét có báng.
Vị ngọt hơi đắng, ôn. Qui kinh Can, Vị.
Theo các sách thuốc cổ:
Thành phần chủ yếu:
Theo sách Trung dược học, thành phần chủ yếu có: saponin Tam thất tương tự như saponin của Nhân sâm, chủ yếu có saponin Nhân sâm Rb1, Rd, Re, Rg1, Rg2, Rh1 và saponin Tam thất C3, D1 ,D2, E2,R1,R2,R3,R4,.Hoạt chất cầm máu trong Tam thất là chất Decichine.
Ngoài ra còn có alkaloit, protid, saccharide, lipid, tinh dầu, các acid amin tự do, caroten và calci.
Tác dụng dược lý:
A.Theo y học cổ truyền:
Hóa ứ chỉ huyết, hoạt huyết định thống. Chủ trị các chứng xuất huyết ngoài và bên trong nội tạng, té ngã ứ huyết sưng đau.
Theo các Y văn cổ:
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
a. Rễ Tam thất thí nghiệm trên chuột cống cái non với liều 5g/kg, uống trong 6 ngày đã làm tăng trọng lượng tử cung một cách có ý nghĩa so với lô chứng, chứng tỏ thuốc có tác dụng hướng sinh dục trên súc vật cái.
b. Rễ Tam thất thí nghiệm trên chuột đực non với liều 5g/kg, uống trong 6 ngày, không làm thay đổi một cách có ý nghĩa trọng lượng tinh hoàn và tuyến tiền liệt so với chuột đối chứng, chứng tỏ Tam thất không có tác dụng hướng sinh dục đối với vật đực với liều này.
c. So sánh hoạt tính gây động dục của rễ Tam thất có độ tuổi khác nhau, các tác giả nhận xét là rễ Tam thất 5 năm có hoạt tính gây động dục hai lần mạnh hơn rễ Tam thất 3 năm.
d. Nghiên cứu tác dụng gây động dục của lá và rễ phụ so sánh với rễ củ Tam thất thì thấy lá Tam thất có hoạt tính yếu hưo khoảng 8 - 10 lần so với rễ củ Tam thất 5 năm.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị các chứng xuất huyết:
2.Trị chấn thương sọ não: cho uống bột Tam thất 3g ( hôn mê cho xông qua mũi) ngày 2 - 3 lần, theo dõi trị 40 ca, có kết quả 75% đối với thể nhẹ và vừa, kết quả tốt, ý thức hồi phục nhanh, triệu chứng thần kinh và cảm giác chủ quan được cải thiện, nước não tủy trong nhanh, lưu lượng máu, lực cản mạch máu não và phù não đều được cải thiện. Thời gian dùng thuốc 3 - 10 ngày dài nhất 21 ngày, trường hợp nặng dùng thêm lợi niệu, trụ sinh, an thần.( Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện thực hành số 1 thuộc Y học viện Quảng tây - Quan sát kết quả điều trị 40 ca chấn thương sọ não điều trị bằng Tam thất, Báo Tân y học 1979,10(7):330).
3.Trị bệnh mạch vành:
4.Trị chứng tăng lipid huyết: Tác giả dùng bột Tam thất sống cho uống 0,6g x 3 lần/ngày. Trị 10 ca huyết áp cao, bệnh mạch vành, xơ mỡ mạch não kèm theo lipid máu và cholesterol cao đã phát hiện lipid máu và cholesterol đều giảm. Cho uống liên tục 1 tháng, lipid huyết bình quân từ 1179,2mg% xuống còn 718,4mg%, cholesterol từ 272,6mg% xuống còn 185mg% ( Trương Côn, Tác dụng của Sinh Tam thất đối với hạ lipid và cholesterol máu - Tạp chí Tân y dược học 1973,10:13).
5.Trị bệnh gan:
6.Giới thiệu một số kinh nghiệm dùng Tam thất trị bệnh:
Liều và cách dùng:
- Vị ngọt hơi đắng tính ôn, vào hai kinh Can Vị
- Công dụng : chỉ huyết, hành huyết, tiêu sưng, giảm đau
- Chủ trị : uống trong chữa thổ huyết, chảy máu cam, băng huyết, đại tiện ra huyết. Dùng ngoài trị ngã tổn thương, cầm máu các vết thương
1. Thành phần : có saponin, tương tự như saponin của Nhân sâm; hoạt chất cầm máu trong tam thất là decichine. Ngoài ra còn có alcaloit, protid, saccharide, lipit, tinh dầu, các axitamin tự do, caroten, canxi.
2. Tác dụng dược lý :
- Có tác dụng cầm máu
- Tổng saponin có tác dụng giảm đau rõ rệt
- Trên hệ tim mạch với chó gây mê dịch tiêm tam thất có tác dụng hạ áp, làm chậm nhịp tim, tăng lưu lượng máu động mạch vành, giảm lực cản động mạch vành, giảm thấp lượng tiêu hao oxy của cơ tim.
làm hạ cholesterol và triglycerit, thúc đẩy quá trình tổng hợp protein của gan.
- Độc tính của thuốc : tổng saponin tiêm dưới da chuột nhắt LD50 = 1246 mg/kg ; tiêm tĩnh mạch chuột nhắt LD50 = 628 mg/kg.
3. Ứng dụng lâm sàng
- Trị các chứng xuất huyết : chảy máu dạ dày, ho ra máu, tiểu ra máu, xuất huyết tiền phòng.
- Trị chấn thương sọ não
- Trị cholesterol máu cao, viêm gan mạn.
- Dùng Tam thất quan tâmninh trong 28 bệnh viện của 7 tỉnh trị các bệnh mạch vành với liều 0,6 - 1,2 g/ngày ; 778ca đau thắt ngực có kết quả 70,2% , kết quả rõ rệt 20,1% .625 ca kiểm tra ECG có kết quả 34,8%, kết quả rõ 14,2% . ( Hội nghị toàn quốc toàn quốc về kiểm định bài Tam thất quan tâm ninh , báo Trung thảo dược 1980 ).
- Phức phương tam thất quan tâm phiến :Tam thất 0,8g, diên hồ sách 4g, hồng hoa, chế thủ ô, kê huyết đằng 12g, một dược 2g; tất cả chia 3 lần trong ngày uống trong 30 -60 ngày, kết quả 73,1% không dùng hoặc giảm liều nitroglycerin, có kết quả ECG 26,7%.( Tổng y viện quân giải phóng TQ , Tạp chí y dược học 1973)
Liều dùng : 4 - 5 g/ngày