Hiển thị các bài đăng có nhãn Y Học Cổ Truyền. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Y Học Cổ Truyền. Hiển thị tất cả bài đăng

Thuốc nam trị lở, ngứa

Về mùa nóng, nhiệt độ cao khiến cơ thể chảy nhiều mồ hôi thường gây rôm sẩy, mẩn ngứa, khi gãi gây sây sát da dễ sinh mụn nhọt. Sau đây là một số vị thuốc và bài thuốc được dùng để trị lở ngứa.

Huyền sâm: Có tính mát, trị sốt nóng, mẩn ngứa, mụn nhọt, rôm sẩy.

Bài thuốc: Huyền sâm, sài đất, thổ phục linh, mỗi vị 10g, cam thảo 4g; sắc uống ngày 1 thang. Hoặc tất cả nấu thành cao, trừ thổ phục linh tán bột, trộn đều với đường kính vừa đủ chế thành dạng cốm.

Ké đầu ngựa.

Ké đầu ngựa: Thành phần có hoạt tính là xanthinin. Có tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm, chống dị ứng, hạ sốt, lợi tiểu, an thần. Được dùng chữa lở ngứa, mày đay, mụn nhọt. Ngày dùng 6-12 quả, hoặc 10-16g cành và lá dưới dạng thuốc sắc, viên hoặc cao.

Bài thuốc: Lá ké đầu ngựa tán bột 8g, uống với nước nấu đậu đen. Phối hợp dùng ngoài lá ké đầu ngựa, lá bồ hòn, lá nghể răm, lá thuốc bỏng, nấu nước để xông và tắm.

Kim ngân: Có vị ngọt, tính mát, nhân dân một số nơi dùng nấu nước uống thay nước chè. Kim ngân được dùng trị rôm sẩy, mụn nhọt, lở ngứa.

Bài thuốc: Hoa kim ngân 6g, cam thảo 3g, nước 300ml, sắc còn 100ml, chia làm 2 lần uống trong ngày.

Kim ngân.

Mướp đắng: Có vị đắng, tính lạnh, không độc. Ngoài công dụng làm thức ăn, mướp đắng được dùng làm thuốc mát tắm cho trẻ em trừ rôm sẩy, thuốc sắc uống chữa sốt, chữa ho.

- Thuốc tắm cho trẻ em trị rôm sẩy: Mướp đắng 2-3 quả, nấu với nước để tắm cho trẻ em, ngày 1 lần.

- Chữa chốc đầu trẻ em: Dùng lá đào nấu nước gội đầu, rồi giã nát quả cùng với hạt mướp đắng để bôi.

Núc nác: Có vị đắng, tính mát, được dùng chữa bệnh dị ứng, lở ngứa da.

Chữa mụn nhọt, chốc lở, mẩn ngứa, mày đay: Vỏ núc nác 30g, thổ phục linh 40g, ké đầu ngựa, cam thảo dây, mỗi vị 15g. Sắc uống ngày 1 thang.

Rau má: Là một vị thuốc mát, vị ngọt, hơi đắng, không độc, còn được dùng làm rau ăn và nghiền làm nước sinh tố rất mát và bổ.

Chữa rôm sẩy, mẩn ngứa: Hàng ngày ăn rau má trộn dầu giấm. Hoặc dùng rau má tươi, giã nát, vắt lấy nước, thêm đường uống hằng ngày.

Sài đất: Nhân dân một số nơi dùng cây sài đất làm rau ăn. Sài đất dùng trị rôm sẩy, viêm tấy, mụn nhọt. Dùng sài đất tươi 300g, nấu với nước để tắm. Hoặc dùng 100g sài đất tươi, giã với ít muối, thêm 100ml nước đun sôi để nguội, rồi vắt lấy nước uống làm 2-3 lần trong ngày. Bã đắp vào chỗ sưng tấy.

Dùng riêng sài đất hoặc phối hợp với bồ công anh, kim ngân và ké đầu ngựa.

Sắn dây: Bột lọc (tinh bột) sắn dây dùng để pha nước uống với đường cho mát, giảm nhiệt, đỡ rôm sẩy.

Bột rắc lên những nơi mồ hôi ẩm ướt, ngứa, rôm sẩy: Bột lọc sắn dây 5g, thiên hoa phấn (tán bột mịn) 5g, hoạt thạch 20g, trộn đều, rắc lên nơi ẩm ngứa rôm sẩy.

Đậu đen: Có tính mát.

Chữa dị ứng, mẩn ngứa, mụn nhọt: Đậu đen sao nhỏ lửa đến khi ruột bên trong có màu vàng đậm. Lấy 50-100g sắc uống.

Đinh lăng: Lá đinh lăng chữa dị ứng, mẩn ngứa, mụn nhọt, sưng tấy. Ngày dùng 4-6g rễ hoặc 30-50g thân cành, hoặc 80g lá đinh lăng sao vàng sắc uống.

Thổ phục linh: Có tác dụng trị bệnh mụn nhọt, lở ngứa, dị ứng da.

Chữa dị ứng, mẩn ngứa, mày đay: Thổ phục linh 20g, liên kiều, ké đầu ngựa, kim ngân hoa, cam thảo dây, mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Chữa mụn nhọt, chốc lở: Thổ phục linh, kim ngân, bồ công anh, mỗi vị 12g, mã đề, cam thảo nam mỗi vị 10g, ké đầu ngựa, hoa kinh giới, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

GS. Đoàn Thị Nhu

(Theo SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG)


Read On 0 nhận xét

Trúng phong và rối loạn tuần hoàn não

Liên hệ bệnh trúng phong của y học dân tộc
và bệnh rối loạn tuần hoàn não của y học hiện đại

Hàng nǎm mỗi độ xuân về, đất trời giao hòa, vạn vật thay đổi, cũng là lúc khí hậu chuyên dần từ khí lạnh của mùa đông sang khí trời ấm áp của mùa xuân. Từ tiết đại hàn 20/1 nǎm 200 1 ngày thứ 13 sau tiết xuân phân 2/4 nǎm 200 1 . Vào thời gian này, khí âm bắt đầu giảm, khí dương bắt đầu sinh, khí hậu lúc nóng lúc lạnh, độ ẩm cao trên 80%. Vào thời gian này những người cao tuổi, cơ thể suy yếu tiền sử có HA, HA không klểrn soát được. thường mắc các chứng bệnh về tuần hoàn và hô hấp.

Liên hệ bệnh trúng phong của y học dân tộc và bệnh rối loạn tuần hoàn não của y học hiện đại

I. Mở ĐầU:

Trong các rối loạn tuần hoàn, rối loạn tuần hoàn não là điển hình nhất.

Bàn về thời khí nǎm Tân Tỵ và Hải Thượng Lãn ông nói: "Sáu nǎm Tân, trong đó có nǎm Tân Ty, thủy hỏa bất cập , thổ vượng quá hóa thành thấp, nǎm Tân Tỵ thủy đại hư, thổ lấn át, thổ với hỏa đồng hóa gọi là: 'Hóa khí dụng sự'.

Rối loạn tuần hoàn não cụ thể là tai biến mạch máu não để lại di chứng nặng nề về thần kinh, tâm

thần y học dân tộc thường xếp vào loại trúng phong. Tùy tưng trường hợp mà phong có thể vào tạng, phủ, kinh lạc v. v. . .

II. RốI LOạN TUầN HOàN NãO THEO Y HọC HIệN ĐạI

1 . Tai biến mạch máu não là một thể của rối loạn tuần hoàn não. Bệnh xuất hiện đột ngột. Bệnh nhân không tử vong cũng để lại di chứng nặng nề. ở người cao tuổi tính chất trầm trọng của bệnh càng tǎng. Lâm sàng, tai biến mạch máu não chia làm 3 loại:

- Chảy máu não.

- Nhũn não (còn gọi là nhồi máu não do tắc hoặc nghẽn mạch).

- Loại hỗn hợp vừa nhũn não vừa chảy máu não.

Ngoài 3 loại trên còn loại tai biến mạch máu não tạm thời, hoặc nhưng không được coi thường vì hay tái phát, dần dần dẫn tới tới biến mạch máu não điển hình.

2. Biểu hiện chung của tai biến mạch máu não :

a. Xuất hiện đột ngột:

- Bệnh nhân đang đứng hoặc ngồi, đột nhiên ngã gục, hiện tượng này xảy ra.

- Bị gió lùa, tắm lạnh, uống rượu, xúc động mạnh đôi khi còn xuất hiện các triệu chứng:

Nhức đầu: Nhức đầu cường độ ngày càng tǎng diển hình là cơn hôn mê. Bệnh nhân ngã và hôn mê. Hôn mê có thể nông hoặc sâu. Đôi khi trên lâm sàng có biểu hiện giảm ý thức hoặc bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo.

b. Dấu hiệu liệt 1/2 người.

- Liệt 1/2 người là dấu hiệu rất quan trọng. Dấu hiệu này xuất hiện ngay từ đầu, hoặc xuất hiện từ từ.

- Trên lâm sàng đôi khi xuất hiện các triệu chứng nếu mỏi một bên, nói ngọng mồm hơi méo, dần dần triệu chứng liệt 1/2 người rõ.

c. Dấu hiệu thần kinh khác:

- Cơn co giật, cơn co cứng. Buồn bã tay chân, rối loạn giác quan, mờ mắt, ù tai không nghe được.

d. Biểu hiện toàn thân:

- Nhịp thở không đều, khò khè, nhiệt đọ ban đầu giảm, sau đó tǎng, chân tay lạnh, vã mồ hôi.

- Mạch nhanh, HA giao động, có thể tụt hoặc tǎng vọt.

- Rối loạn thần kinh thực vật: da mặt đỏ hoặc tím.

e. Tiến triển của bệnh:

Thường phức tạp, khó lường trước, nhìn chung xấu, tử vong trong những ngày đầu.

3. Tiên lượng với bệnh nhân tai biến mạch máu não:

Đứng trước một bệnh nhân tai biến mạch máu não có dấu hiệu gì để tiên lượng bệnh diễn biến xấu:

- Liệt nặng, hôn mê sâu.

- Co cứng

- Bệnh nhân đang hôn mê có co giật ở một bên hoặc hai bên .

III. QUAN ĐIểM CủA YHDT Về TAI BIếN MạCH MáU NãO

- Hôn mê, cấm khẩu, bán thân bất toại y học dân tộc gọi là chứng trúng phong.

Theo Kỳ Bá chia làm 4 loại:

1. Thiên khô: Tê liệt 1/2 người.

2. Phong phì: Mình không đau, 2 tay buông xuôi.

3. Phong ý: Có lúc như thiêm thiếp ngủ, lúc hoảng hốt, bàng hoàng, không biết gì.

4. Phong ý: phong thắng đau khắp người.

- Hàn thắng đau dữ dội.

- Thấp thắng đau kèm theo tê liệt

A Phong trúng vào cơ thể

1. Phong trúng tạng:

- Tâm bị: Bệnh nhân hay nằm ngửa, phát nóng, rưỡi khô cứng, sắc mặt đo , mất tiếng.

- Can bị: Người bệnh choáng váng, cất đầu không được, sườn đau, mắt trợn ngược, tính tình giận dữ, chân tay co quắp.

- Tỳ bị: Bụng đầy chướng, da vàng, chân tay yếu sức, cơ máy.

- Phế bị: Ngực đầy tức, hen suyễn, phiến táo, mồ hôi ra, mắt hay nhìn, ít nói.

* Thân bị: Phù nề, lưng mỏi, xương đau.

2. Nguyên nhân ngoạI phong

- Nguyên nhân bên ngoàI là yếu tố thuận lợi cho nguyên nhân nội nhân phát bệnh vì: Cơ thể suy yếu tấu lý sơ hở, tác nhân do lục khí xâm nhập vào cơ thể, lục khí đó là phong hàn thử thấp táo hoả.

- Sáu thứ khi trên xâm nhập vào cơ thể gọi là ngoạI nhân. NgoạI nhân và nội nhân kết hợp với nhau làm cho tính chất của bệnh càng trầm trọng hơn. Do đó khi chẩn đoán và đIều trị, người thày thuốc cần phân biệt cho được đau là gốc đau là ngọn. Có như vậy việc điều trị sẽ đạt hiệu quả cao.

C. Một số quan điểm trúng phong của người xưa

1. Tác giả: Lưu Hà Giang

Các chứng phong, dù ở thể hôn mê co cứng tê liệt đều không phải là phong. Riêng ở can khía thực, cũng không phải là ngoại phong mà do nội phong. Phần nhiều vì: lao động nghỉ ngơi bất thường, dẫn tới tâm hoả tạo thịnh, thận thuỷ suy kiệt, âm hư, dương vượng, mà nhiệt khí bốc lên, làm tâm thần không nguôi, gân cốt bất dung mà ngã vật xuống, không biết gì, hoặc giận mừng, sầu muộn, thươnh xót, sợ hãi, 5 chí quá cực gây lên.

Nếu ta cứ nghĩ đến phong là ngọn mà quên mất gốc của phong là hoả là chưa đủ.

2. Tác giả: Lý Đông Viên

Trúng phong không phải là nguyên nhân bên ngoài mà gốc của phong là khí.

Phần lớn những người trên 40 tuổi, khí huyết đã suy yếu hoặn nhân thất tình làm tổn thương đến tâm khí hoặc ở người béo trệ là hình thịnh khí suy do đó nguồn gốc của phong là khí.

3. Tác giả: Chu Ngạn Tu

- Phương tây bắc khí hàn, khi bị bệnh thường do phong hàn

- Phương tân nam khí ôn có nhiều thấp khi bị bệnh phần lớn là thấp thổ sinh đờm, đờm sinh nhiệt, nhiệt sinh phong.

4. Tác giả Hứa Học Sĩ:

- Bạo nộ thương âm, bạo kỷ thương dương, ưu sầu nhiều, khí hư huyết nghịch.

lứa tuổi cao chân thủy suy liệt, nếu quá giận dữ, càn hỏa động bốc lên, làm cho mình nóng, có đờm. Đôi khi ở tuổi thanh niên cũng bị bệnh là do: sắc dục quá độ, chân âm thủy khuy tổn, không đủ chế hỏa, hoặc phụ nữ sau khi sinh, huyết bị suy tổn dẫn tới hỏa bốc lên làm cho người bệnh bị hôn mê.

IV. QUAN ĐIểM TRúNG PHONG HIệN NAY

Hiện nay do ánh sáng của Y học hiện đại có nhiều thầy thuốc y học hiện đại nghiên cứu và làm công tác y học dân tộc. Để rút gọn dễ nhớ và dễ làm: tác giả Giáo sư Nguyễn Tài Thu cho Trung phong ở những thể sau:

1. Phong trúng tạng phủ

a/ Chứng bế, thường thực chứng

b/ Chứng thoát, thường hư chứng

2 . Trúng phong kinh lạc:

a/ Trúng kinh: có biểu hiện tê, hệt.

b/ Trúng lạc: méo miệng, mắt lệch.

Sau đó đề ra phương thức chẩn mạch, xác định nguyên nhân và phân biệt bệnh nặng, nhẹ.

- Mạch phù huyền có lực là phong.

- Phù hoạt là đàm.

- Phù sác có lực là hỏa.

- Trầm huyền có lực là khí.

Bệnh nhẹ: thường người bệnh mạch phù hoạt hoặc sác kèm theo có thần, dễ khỏi.

Bệnh nặng mà mạch huyền phù sác, Hồng Đại là bệnh khó chữa.

Bệnh tiến triển nặng mà hai bộ xích không có mạch là hạ nguyên khí đã tắt

V. KếT LUậN

Để thay cho phần kết luận chúng tôi nêu một số vấn đề về thời khí nǎm Tân Ty:

- Bàn về thời khi nǎm Tân Tỵ và bệnh tật có thể phát sinh: Hải Thượng Lãn ông nói: "Sáu nǎm tân trong đó có nǎm Tân Tỵ, thủy hỏa bất cập, thổ, thịnh hóa thành thấp do đó khi điều trị cần bổ Thận trừ thấp.

Bổ thận: châm bổ, Thân du, Thái khê, Nhiên đốc. Trừ thấp: Kiện tỳ. Trừ thấp, Bổ Túc Tam lý, Tam âm giao, Thái bạch.

Nǎm Tân Tỵ, Thủy đại hư, Thổ lấn át, Thổ với Hỏa đồng hóa gọi là "Hỏa khí dụng sụ ".

Từ tiết đại hàn 20/1/2001 đến xuân phân 1 9/3/200 1 thời gian này, khí dương minh táo kim là khách khắc khí khuyết âm can mộc là chủ. Khách khắc chủ là thuận, do đó khí của Dương minh đại trường và Vị xâm nhập vào Can và Tâm bào. Khi điều trị cần tả các huyệt kinh Đại trường và Kinh vị, châm bổ các huyệt ở kinh Can và Tâm bào.

Mùa xuân nǎm Tân Tỵ khí của phong thất là chủ yếu nhưng điều trị ta cần lưu tâm đến táo nhiệt. Sáu nǎm tân trong đó có nǎm Tân Tỵ. Thủy bất cập. Trong ngũ hành, Thủy sinh mộc. Mẹ nhược con suy không khống chế được thổ do đó thổ khắc thuỷ mạnh. Thổ thịnh sẽ xuất hiện mưa, ẩm thấp nhiều. Người ta quan hệ với thiên nhiên gọi là thiên nhân hợp nhất. Do vậy giai đoạn này sẽ xuất hiện các chứng "tê, đau, mệt mỏi, nặng nề, hoa mắt và bệnh rối loạn tuần hoàn não và bệnh về hô hấp".

BS. Phạm Vǎn Giao

http://www.cimsi.org.vn

(Theo http://www.cimsi.org.vn)


Read On 1 nhận xét

Đông y điều trị xơ gan

Xơ gan là một bệnh thường có ở Việt Nam, là một bệnh nặng, nhất là đã có cổ trướng hoặc đã vàng da. Bệnh được ổn định lâu hay mau phụ thuộc chủ yếu vào chế độ làm việc, chế độ dinh dưỡng và việc phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc...

Nhưng nói chung xơ gan tiên lượng rất xấu. Tuy đã điều trị ở bệnh viện, nhưng tỷ lệ tử vong khá cao. Vì vậy việc phòng bệnh để tránh mắc bệnh viêm gan, dẫn đến xơ gan là rất quan trọng, cần hiểu biết để phòng tránh.

Xơ gan thường tiếp theo sau một viêm gan mạn tính. Rất khó xác định được lúc nào viêm gan mạn đã chuyển sang xơ gan nếu không quản lý bệnh nhân, theo dõi định kỳ và nhất là soi ổ bụng hoặc sinh thiết.

Cổ trướng thường được coi là một biểu hiện mất bù của xơ gan, tiến triển dần dần. Khi to nhiều, bệnh nhân mới để ý đến. Nước cổ trướng màu vàng chanh, còn nước màu hồng hay đỏ là có ý nghĩa xấu: xơ gan đã ung thư hóa, hoặc có áp lực tĩnh mạch cửa tăng nhiều, lách to, cứng chắc, có khi đến tận rốn.

Theo y học cổ truyền, xơ gan cổ trướng là do viêm gan, sốt rét, uống rượu, kém dinh dưỡng. Căn cứ vào triệu chứng và phương pháp chữa, các thầy thuốc Đông y chia làm 3 thể bệnh với phép điều trị như sau:

1. Thể xơ gan do can uất, tỳ hư, can tỳ bất hòa

Triệu chứng: Sắc mặt xạm tối, đầu choáng, mệt mỏi, ăn kém, đau vùng gan, tức vùng thượng vị, ợ hơi, bụng trướng, đại tiện lỏng, rêu lưỡi mỏng, mạch huyết tê. Phép chữa xơ can kiện ty:

Bài 1: Rau má 12g, mướp đắng (khổ qua) 12g, thanh bì, chỉ thực, uất kim, hậu phác, mỗi vị 8g; ý dĩ, hoài sơn, biển đậu, đinh lăng mỗi vị 12g. Nước 3 bát, sắc còn 1 bát, uống lúc bụng đói, uống ấm.

Bài 2: Đan sâm 16g, huỳnh kỳ 10g, bạch phục linh 10g, bạch truật 12g, bạch thược 10g, nhân trần 20g, chi tử 8g, ngũ gia bì 8g, đại phúc bì 6g, sài hồ 10g, ý dĩ 16g, cam thảo 6g, đại táo 6g, gừng khô 6g. Sắc uống như trên ngày một thang.

2. Xơ gan do khí trệ huyết ứ:

Triệu chứng: đau nhiều vùng mạng sườn, bụng trướng, người gầy, lách to, môi lưỡi tím, mạch tế. Phép chữa: hành khí hóa ứ:

Bài 1: Kê huyết đằng 12g, cỏ nhọ nồi 12g, uất kim 8g, tam lăng 8g, nga truật 8g, chỉ xác 8g, sinh địa 12g, mẫu lệ 16g, quy bản 10g. Sắc uống ấm ngày một thang.

Bài 2: Bạch thược 12g, đương quy 8g, xuyên khung 12g, đan sâm 12g, hồng hoa 8g, đào nhân 8g, diên hồ sách 8g. Sắc uống ngày một thang. Nếu lách to, thêm tam lăng 12g, nga truật 12g, mẫu lệ 10g, mai ba ba 20g.

Bài 3: Đào nhân 12g, hồng hoa 8g, đương quy 12g, xích thược 12g, đan sâm 22g, tam lăng 8g, nga truật 8g, hương phụ chế 8g, chỉ xác 8g. Sắc uống ngày một thang.

3. Thể xơ gan cổ trướng: Thể này có 3 loại:

Âm hư thấp nhiệt: Thể này thường kèm theo chảy máu. Triệu chứng: sắc mặt vàng tối, chảy máu cam, chảy máu chân răng, chân phù, sốt hâm hấp, hoặc sốt cao, phiền táo, miệng khát, họng khô, lợm giọng, tiểu tiện đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch huyền tế sác. Phép chữa: thanh nhiệt, hóa thấp, dưỡng âm, lợi thủy:

Bài 1: Nhân trần 20g, thạch hộc 20g, sa sâm 12g, sinh địa 12g, xa tiền 12g, trạch tả 12g, bạch mao căn 12g, hậu phác 6g, trần bì 6g, bán hạ chế 6g, chi tử 8g, nước 3 bát sắc còn 1 bát, uống trong ngày một thang.

Bài 2: Thục địa 12g, sơn thù 8g, hoài sơn 12g, trạch tả 8g, đơn bì 8g, phục linh 8g, bạch truật 12g, đương quy 8g, địa cốt bì 12g, bạch mao căn 20g.

Tỳ thận dương hư: Triệu chứng: mệt mỏi, ăn kém, bụng trướng, chân phù, tiểu tiện ít, đại tiện lỏng, sợ lạnh, sắc mặt vàng hoặc xanh nhợt, chất lưỡi nhạt hoặc bệu, rêu trắng mỏng, mạch trầm tế. Phép chữa: ôn thận tỳ dương, hành thủy.

Bài 1: Phụ tử chế 12g, nhục quế 4g, chỉ xác 6g, mộc hương 6g, bạch truật 12g, ý dĩ 16g, trạch tả 12g, hoài sơn 12g, kê nội kim 4g, xa tiền tử 12g.

Bài 2: Phụ tử chế 12g, quế chi 6g, gừng khô 6g, phục linh 12g, hậu phác 6g, trạch tả 12g, đại phúc bì 12g, huỳnh kỳ 12g, xuyên tiêu 6g.

Thể cổ trướng nhiều, thủy khí tương kết: Triệu chứng: cổ trướng tăng nhanh, không nằm được, tiểu tiện ít, đại tiện không thông, mạch huyền sác. Phép chữa: công hạ, trục thủy. Chú ý theo dõi mạch, huyết áp tránh trụy mạch do mất nước và điện giải quá nhiều.

Bài 1: Cam toại nướng 6g, thương lục 6g, đại phúc bì 12g, đại hoàng 12g, hắc sửu 8g, úc lý nhân 8g, nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống nguội sáng chiều.

Bài 2: Nguyên hoa 8g, cam toại 8g, đại kích 8g, phơi khô tán bột. Ngày uống 2g vào buổi sáng với nước đại táo.

Bài 3: Cây lá trạch lan 30g, rễ muồng trâu (sao rượu) 30g, rễ bồ ngót 30g, lá tía tô 10g, hậu phác 5g, lá dâu 12g. Nước vừa đủ, sắc còn 1/2 uống ấm trong ngày.

Bài 4: Hương phụ chế 12g, vỏ quýt sao 12g, vỏ cau sao 6g, hậu phác 6g, cam thảo 3g, nước vừa đủ, sắc uống như trên.

Bài 5: Hoàng cầm 12g, sơn chi tử 12g, nhân trần 12g, đình lịch tử 8g, long đờm thảo 8g. Nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống ấm trong ngày một thang.

4. Món canh, cháo chữa xơ gan cổ trướng

Cá chép nấu xích tiểu đậu: Cá chép 1 con 0,5 - 1kg, đánh vảy, bỏ mang và ruột, đậu đỏ 120g và trần bì (vỏ quýt) 6g, rửa sạch, nhồi 2 vị vào bụng cá. Nước vừa đủ, đun to lửa cho sôi, rồi nhỏ lửa, nấu tới nước sánh là được. Công dụng: thanh nhiệt, giải độc, lợi thủy, tiêu thũng, trị xơ gan cổ trướng vàng da, viêm túi mật, viêm tuyến tụy. Ngày ăn 2 lần, ăn cá, uống canh.

Canh thịt lợn mao căn: Mao căn, rễ cỏ tranh (rễ khô 50g, rễ tươi 150g), cắt từng đoạn ngắn rửa sạch, thịt lợn nạc 350g, rửa sạch thái chỉ. Hai thứ cho vào nồi, nước vừa đủ, nấu chín, cho gia vị là được. Công dụng: ích khí, thanh nhiệt, lợi thấp, thoái hoàng. Trị cổ trướng vàng da, mệt mỏi, cơ thể suy nhược.

Cháo tạm trúc diệp, đậu đỏ: tạm trúc diệp 100g, rửa sạch, cắt nhỏ, đậu đỏ loại nhỏ 50g, gạo nếp 100g đãi sạch, ngâm trương cho vào nồi, nước 1 lít, đun lửa to cho sôi, khi hạt gạo nếp sắp nở mới cho tạm trúc diệp vào, nấu chín là được. Công dụng: thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, cổ trướng, chia ngày ăn 2 - 3 lần.

Cháo ý dĩ, phục linh: Bột bạch phục linh 20g, xích tiểu đậu 50g, ý dĩ (hạt bo bo) 100g. Ngâm xích tiểu đậu nửa ngày rồi cho vào nấu cháo cùng ý dĩ, khi chín nhừ thì cho bột phục linh vào nấu tiếp; sau đó cho ít đường đỏ, ăn trong ngày. Công dụng chữa viêm gan, xơ gan vàng da.

Cháo táo tàu, ngó sen: táo tàu 10 quả (bỏ vỏ và hạt), hạt bo bo (ý dĩ) 50 - 100g, bột ngó sen 15g. Nấu hạt bo bo cho chín, mềm, cho táo tàu vào, đun sôi tiếp, sau đó cho bột ngó sen vào (bột hòa tan cho đều với nước sôi), đun sôi lại lần nữa là được, chia 2 lần ăn trong ngày. Công dụng: an thần, lợi thủy, trừ xơ gan cổ trướng.

Cháo nhân trần: nhân trần 60g, gạo lức 100g. Nhân trần rửa sạch đun lấy nước, bỏ bã, cho gạo lức vào, đã vo sạch, đun to lửa cho sôi, sau đun nhỏ lửa, nấu cháo loãng, có thể cho ít đường đỏ, ăn ngày 2 - 3 lần. Ăn liền 7 - 10 ngày là một liệu trình. Công dụng: trị xơ gan cổ trướng, vàng da cấp. Hoặc thay nhân trần bằng chi tử nhân 30g, gạo lức 100g. Nấu ăn như cháo nhân trần. Công dụng: trị viêm gan vàng da, thổ huyết, lỵ ra máu, tiểu ra máu, họng đau, bệnh lậu.

Ăn cá chép ốp thấm ba đậu: cá chép 1 con to 0,5 - 1kg, dùng dao mổ dọc 2 bên sống lưng thật sâu, ba đậu 40 hạt, lột bỏ vỏ rồi nhét vào 2 bên dọc sống lưng cá cho đầy, ốp cá lại, dùng giấy bạc bọc ngoài 3 lớp, ràng rịt kỹ, để lên lửa than, nướng chín, rồi bỏ hết ba đậu, chỉ ăn cá chép với nước cơm sôi, ăn nhạt, kiêng mắm, muối. Trong ngày sẽ đi đại tiện, tống hết vật tanh hôi. Bụng xọp dần. Nếu đi đại tiện nhiều thì uống nước đun sôi để nguội sẽ đi bình thường.

Ăn cá chép, tỏi, đậu đỏ: Cá chép tươi sống khoảng 500g, mổ thịt, để cả vảy, bỏ ruột. đậu đỏ nhỏ hạt 100g, tỏi vài nhánh. Đậu nấu chín, nhét tỏi và đậu vào bụng cá, gói cá bằng lá chuối tươi, buộc kỹ rồi vùi vào tro nóng có than hồng, khi chín dừ cá lấy ra ăn nhạt, ngày ăn một lần, ăn 3 - 6 ngày liền.

Các loại nước uống:

- Chi tử 12g, nhân trần 12g, nước 600ml, sắc còn 200ml, cho chút đường chia 3 lần uống trong ngày.

- Chi tử 16g, hoàng bá 12g, cam thảo 4g, sắc nước uống ngày một thang.

- Mẫu đơn bì 8g, rễ cỏ tranh 20g, thục địa, hoài sơn, bạch truật, địa cốt bì mỗi vị 12g, sơn thù, trạch tả, phục linh, đương quy mỗi vị 8g, sắc uống ngày một thang.

- Cây chó đẻ răng cưa 100g, sắc nước 4 lần. Lần 1: sắc với 3 bát nước lấy một bát thuốc. Ba lần sau đều sắc với 2 bát nước lấy nửa bát thuốc. Trộn chung 4 nước, thêm ít đường đỏ, đun sôi cho tan, chia 6 lần uống trong ngày. Khi hết triệu chứng xơ gan, vàng da, thôi không uống thuốc chữa.

- Nhân trần, bồ công anh, uất kim mỗi vị 30g, nghệ vàng 12g, sắc uống ngày một thang.

- Nhân trần 20g, quả dành dành 10g, đại hoàng 5g, sắc uống ngày một thang.

- Nhân trần 100g, bồ công anh 50g, đường đỏ 30g, nước 600ml, sắc với nhân trần và bồ công anh còn 400ml, cho đường vào là được. Chia 2 lần uống trong ngày.

Thuốc thoa ngoài: Rễ trầu già 10g, bồ kết 5g, long não 3g, gừng khô 4g, tỏi 1 củ nhỏ. Tất cả giã nát, ngâm với rượu trong một tuần. Dùng thoa bụng, ngày 3 lần, nhiều hơn càng tốt.


( theo suckhoedoisong.vn)
Read On 0 nhận xét

Châm cứu học Tập 1

+ Chủ biên: PGS.TS Phan Quan Chí Hiếu
+ NXB Y học 2007
+Link download:
http://vatm.edu.vn/download/CCHtap1.pdf

theo ykhoavn.net
Read On 0 nhận xét

Bệnh học và điều trị nội khoa - Kết hợp Đông Tây

+ Chủ biên : PGS.TS Nguyễn Thị Bay
+ NXB Y học - 2007
+ Link download:
http://vatm.edu.vn/download/bh_dt_noi_khoa1.pdf

theo ykhoavn.net
Read On 0 nhận xét

Bệnh học và điều trị đông y

+ Chủ biên: PGS.TS Phan Quan Chí Hiếu
+ NXB Y học - 2007
+ Link download :
http://vatm.edu.vn/download/benhhocdtdy.pdf

theo ykhoavn.net
Read On 0 nhận xét

Dịch cân kinh - Ebook

Phần thứ nhất: Dẫn nhập

Nguồn gốc
Nội dung


Phần thứ nhì: Chuẩn bị
Điều kiện để luyện
Trường hợp không nên luyện Dịch Cân Kinh
Tư thức dự bị lúc mới luyện
Hiệu năng
Chủ trị
Thu công


Phần thứ ba: 12 thức Dịch Cân kinh
Phần thứ tư: Tổng kết
Tài liệu Dịch Cân kinh Của nhà văn Vũ Hạnh sưu tầm.

Mobipocket Reader cho phép xem các tập tin có định dạng PRC, PDB...

Theo Edu.vn

Liên kết để bạn tải xuống máy:

http://www.download.com.vn/Data/Soft/2008/07/03/DichCanKinh.rar
Read On 0 nhận xét

557 bài thuốc dân gian gia truyền - Ebook

Tài liệu gồm 577 bài thuốc chữa trị bệnh thường gặp, các bài thuốc được trên nguyên tắc quan trọng là bổ sung các khoáng chất, các vitamin để tăng sức đề kháng của cơ thể. Ngăn ngữa và tiêu diện các mầm bệnh của các loại bện tuỳ theo từng bài thuốc.
Read On 0 nhận xét

Y học cổ truyền Việt Nam - Ebook

Xin giới thiệu tới bạn đọc bộ sách kinh điển của Y học cổ truyền Việt Nam gồm 5 quyển:

Quyển 1 : Kim Quỹ
Quyển 2 : Linh Khu
Quyển 3 : Nam Kinh
Quyển 4 : Tố Vấn
Quyển 5 : Thương Hàn Luận


Liên kết để bạn tải xuống máy:

http://www.download.com.vn/Data/Soft/2008/07/17/y_hoc_co_truyen.rar
Read On 0 nhận xét

Điểm Huyệt Liệu Pháp - Ebook

Ông Mã Tú Đường là một nhà châm cứu và điểm huyệt đã nhiều năm. Riêng về khoa điểm huyệt, ông bắt đầu nghiên cứu từ mùa xuân năm 1956 đến mùa thu năm 1959,

Ông đã đem những liệu pháp kinh nghiệm lâm sàng giai đoạn đầu làm thành tổng kết bước đầu ,nhà xuất bản Thiểm Tây nhân dân xuất bản xã giúp đỡ đem xuất bản. Sau đó, trải qua nhận được nhiều thư của độc giả cổ vũ, thúc giục, ông càng thêm tin tưởng và quyết tâm tăng thêm sức mạnh nghiên cứu của minh.


Đến năm 1978, trên cơ sở thực tiễn lâm sàng “ Điểm huyệt liệu pháp” đã qua 20 năm, chữa nhiều loại bệnh, tăng thêm được nhiểu thủ pháp chữa trị, xác minh được một số vấn đề có tính lý luận đã gặp trên lâm sàng, làm cho một liệu pháp bất luận là cơ sở lý luận, hay là ở vận dụng thủ pháp và thực tiễn lâm sàng đều rất là phong phú so với sách trước.

Nguồn phát hành:

Nxb Thiểm tây Khoa học Kỹ thuật

Theo Edu.vn


Liên kết để bạn tải xuống máy:

http://www.download.com.vn/Data/Soft/2008/07/17/diem_huyet_lieu_phap.rar
Read On 0 nhận xét

Tác dụng chữa bệnh của gấc

Dầu gấc rất hữu ích đối với những trường hợp thiếu vitamin A như trẻ con chậm lớn hay mắc bệnh khô mắt, quáng gà, người kém ăn, mệt mỏi. Nó cũng được bôi vào vết thương, vết bỏng để giúp nhanh lên da non.

Bộ phận dùng làm thuốc của gấc: Hạt gấc đã bóc bỏ áo hạt, phơi hay sấy khô; dầu gấc được ép từ màng hạt đã phơi hoặc sấy khô; rễ thu hái vào mùa đông rửa sạch và phơi khô.

Dầu gấc dùng kèm với một số vị thuốc kháng khuẩn đặc hiệu sẽ chữa được bệnh trứng cá có nhân. Dầu gấc có tác dụng nhuận tràng, thích hợp cho người táo bón.


Người lớn mỗi ngày dùng 10-20 giọt, chia làm 2 lần, uống trước bữa ăn chính. Trẻ em 5-10 giọt mỗi ngày.

Hạt gấc dùng theo kinh nghiệm nhân dân chữa mụn nhọt, quai bị, sưng vú, tắc tia sữa, trĩ, lòi dom. Có nơi còn dùng chữa sốt rét có báng; chủ yếu dùng ngoài, mỗi ngày 1-2 g.


Các bài thuốc:

- Gốc dây gấc, đơn gối hạc, mộc thông, tỳ giải mỗi vị 15 g, sắc uống hoặc ngâm rượu xoa bóp cũng chữa phong thấp, sưng chân.

- Nhân hạt gấc mài với nước, bôi chữa mụn nhọt, ghẻ lở:

- Nhân hạt gấc giã với một ít rượu 30-40 độ, đắp chữa vú sưng đau.

- Hạt gấc giã nát, thêm một ít giấm, gói bằng vải, đắp chữa trĩ, lòi dom, để suốt đêm.

- Hạt gấc và vảy tê tê hai vị bằng nhau, sấy khô tán bột, mỗi lần dùng 2 g hòa với rượu ấm uống lúc đói để chữa sốt rét có báng.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Read On 0 nhận xét

SÂM TAM THẤT

Sâm tam thất dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản thảo cương mục, tập 12 với tên Tam thất, còn có tên khác là Kim bất hoán, Điền thất, sơn thất, Nhân sâm tam thất, là rễ phơi khô của cây Tam thất (Panax notoginseng (burt). F.H.Chen hoặc Panax repens Maxim) thuộc họ Ngũ gia bì ( Araliaceae).

Tính vị qui kinh:

Vị ngọt hơi đắng, ôn. Qui kinh Can, Vị.

Theo các sách thuốc cổ:

  • Sách Bản thảo cương mục: ngọt, hơi đắng, ôn, không độc.
  • Sách Bản thảo hội ngôn: vị ngọt hơi đắng, tính bình, không độc, qui Dương minh, Quyết âm kinh.
  • Sách Bản thảo bị yếu: vị ngọt, đắng hơi ôn.
  • Sách bản thảo cầu chân: nhập Can, Vị kiêm Tâm, Đại tràng.
  • Sách bản thảo tái tân: nhập Phế Thận.

Thành phần chủ yếu:

Theo sách Trung dược học, thành phần chủ yếu có: saponin Tam thất tương tự như saponin của Nhân sâm, chủ yếu có saponin Nhân sâm Rb1, Rd, Re, Rg1, Rg2, Rh1 và saponin Tam thất C3, D1 ,D2, E2,R1,R2,R3,R4,.Hoạt chất cầm máu trong Tam thất là chất Decichine.

Ngoài ra còn có alkaloit, protid, saccharide, lipid, tinh dầu, các acid amin tự do, caroten và calci.

Tác dụng dược lý:

A.Theo y học cổ truyền:

Hóa ứ chỉ huyết, hoạt huyết định thống. Chủ trị các chứng xuất huyết ngoài và bên trong nội tạng, té ngã ứ huyết sưng đau.

Theo các Y văn cổ:

  • Sách Bản thảo cương mục: " chỉ huyết, tán huyết, định thống, chảy máu do tổn thương dao kéo, té ngã, nhai nát hoặc tán bột bôi vào đều cầm máu, chủ thổ huyết, nục huyết, hạ huyết, huyết lî, băng lậu, sau sanh huyết ối không ra hết, đau do huyết ứ, mắt đỏ sưng mủ, hổ, rắn casn chảy máu đều cầm".
  • Sách Y trung tham tây lục: " Tam thất vị đắng, hơi ngọt, tính bình, hóa ứ huyết chỉ huyết, vượng hành là vị thuốc chủ yếu cầm thổ huyết, nục huyết, bệnh khỏi không sinh ứ huyết ở kinh lạc.kiêm trị nhị tiện hạ huyết, con gái băng huyết, lî ra máu đỏ tươi lâu không khỏi ( nên dùng với Nha đảm tử). Trường hợp ruột bị loét đi lî phân sắc tím hôi tanh có màng mỡ, loét ruột muốn thủng. Tam thất có tác dụng hóa hủ sinh tân, dùng để trị. Thuốc còn có tác dụng hóa ứ huyết trị chứng trưng hà, kinh nguyệt không thông, thuốc hóa ứ mà không hại huyết mới sanh, chảy máu ngoài da dùng bột đắp vết thương cầm ngay. Trường hợp té ngã tổn thương ảnh hưởng nội tạng, kinh lạc ngoài đắp trong uống rất tốt. Nhọt mới bị sưng đau đắp ngoài là khỏi ( nên kết hợp với đồng lượng bột Đại hoàng trộn dấm đăép). Trường hợp sang độc trong xương có thể dùng Tam thất làm độc thóat ra".

B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:

  1. Tác dụng cầm máu: nước sắc uống của rễ Tam thất, bột Tam thất và dịch chiết Tam thất đều có tác dụng rút ngắn thời gian đông máu và thời gian prothrombin có tác dụng ức chế ngưng tập tiểu cầu ( theo Đoàn thị Nhu, Vũ thị Tâm và Nguyễn thị Nho, Thông báo Dược liệu 1977,4:14-20, Hà nội); rễ Tam thất có kháng năng kháng lại hiện tượng giảm prothrombin trong máu thỏ và giảm khả năng máu đông gây thực nghiệm với dicumarol.
  2. Aûnh hưởng của thuốc đối với trung khu thần kinh: Loại Saponin Rg có tác dụng hưng phấn trung khu thần kinh, có tác dụng chống mệt mỏi, tăng khả năng lao động trí óc và chân tay, nhưng loại Saponin như Rb thì có tác dụng ức chế trung khu thần kinh biểu hiện an thần gây ngủ. Bộ phận trên mặt đất của Tam thất như lá hoa có nhiều loại Saponin Rb nên có tác dụng ức chế trung khu là chính còn bộ phận rễ thì hưng phấn là chủ yếu. Tất cả các loại tổng Saponin của rễ cũng như tổng Saponin của lá Sâm Tam thất đều có tác dụng giảm đau rõ rệt.
  3. Aûnh hưởng của thuốc đối với hệ tim mạch: Dịch tiêm Tam thất đối với chó gây mê có tác dụng hạ áp, làm chậm nhịp tim, tăng lưu lượng máu động mạch vành, giảm lực cản của động mạch mạch vành. Tổng saponin rễ Tam thất có tác dụng rõ rệt hạ huyết áp động mạch và giảm lực cản mạch máu ngoại vi, tăng lượng máu xuất của tim và làm chậm nhịp tim, giảm thấp lượng tiêu hao oxy của tim. Chất chiết xuất rễ nhung của Tam thất có tác dụng đối kháng với kích thích tố thùy sau tuyến yên ( oxytoxin và vasopressin) và độ rung tim gây nên thiếu máu động mạch vành.
  4. Aûnh hưởng của thuốc đối với chuyển hóa: bột Tam thất có tác dụng làm hạ cholesterol, lượng triglycerid trong máu. Saponin Tam thất C1 có tác dụng điieù tiết hai chiều đối với glycogen tổng hợp và phân giải. Tổng Saponin của Tam thất có tác dụng thúc đẩy quá trình tổng hợp protein huyết thanh của gan, tăng hàm lượng cAMP và làm giảm hàm lượng cGMP của tế bào cơ tim chuột nhắt, do đó làm tăng rõ rệt tỷ lệ cAMP/cGMP nhưng Tam thất nếu được chế biến với nhiệt độ cao ngược lại làm tăng cao cholesterol huyết thanh, Triglycerid, betalipoprotein và làm giảm alpha lipoprotein.
  5. Aûnh hưởng đến chức năng miễn dịch: cũng như Nhân sâm, sâm Tam thất có tác dụng hồi phục lại bình thường phản ứng miễn dịch quá thấp hoặc quá cao không làm ảnh hưởng đến phản ứng miễn dịch bình thường của cơ thể.
  6. Độc tính của thuốc: Liều dùng chí tử chích tĩnh mạch thỏ nhà của cao nước Tam thất là 2,5-3g/kg, chích ổ bụng đối với chuột nhắt thì liều chí tử của mỗi loại chuột phân biệt là 0,5-0,75/kg và 0,075-0,1/kg. Tổng saponin Tam thất tiêm dưới da chuột nhắt, LD50 : 1246mg/kg, tiêm tĩnh mạch cho chuột nhắt LD50: 628mg/kg, 3-5% có tác dụng dung huyết nhẹ, tiêm tĩnh mạch cho 1ml 5% dịch Tam thất/phút thì liều chí tử là: 587 ± 108ml/kg. Dùng bột Tam thất 15g/kg cho bơm vào dạ dày chuột nhắt không có tử vong, sau 2 tuần, làm sinh thiết tim, gan, thận, lá lách, dạ dày và ruột đều không thay đổi.
  7. Một số kết quả nghiên cứu sâm Tam thất trên súc vật thí nghiệm của Đoàn thị Nhu và cộng sự tại Hà nội - Việt nam ( Thông báo Dược liệu 1977,4:14-20, Hà nội).
  • Rễ Tam thất làm tăng khả năng hoạt động của súc vật thể hiện kéo dài thời gian của lô chuột thử thuốc so với lô đối chứng.
  • Thuốc có tác dụng làm tăng sức đề kháng của súc vật đối với yếu tố độc hại như liều độc Uabain với tim, nhiệt độ môi trường xung quanh quá cao hoặc quá thấp vượt ngoài giới hạn điều hòa của cơ thể.
  • Thuốc Tam thất khác với Nhân sâm không có tác dụng gây tăng huyết áp.
  • Đối với tác dụng nội tiết:

a. Rễ Tam thất thí nghiệm trên chuột cống cái non với liều 5g/kg, uống trong 6 ngày đã làm tăng trọng lượng tử cung một cách có ý nghĩa so với lô chứng, chứng tỏ thuốc có tác dụng hướng sinh dục trên súc vật cái.

b. Rễ Tam thất thí nghiệm trên chuột đực non với liều 5g/kg, uống trong 6 ngày, không làm thay đổi một cách có ý nghĩa trọng lượng tinh hoàn và tuyến tiền liệt so với chuột đối chứng, chứng tỏ Tam thất không có tác dụng hướng sinh dục đối với vật đực với liều này.

c. So sánh hoạt tính gây động dục của rễ Tam thất có độ tuổi khác nhau, các tác giả nhận xét là rễ Tam thất 5 năm có hoạt tính gây động dục hai lần mạnh hơn rễ Tam thất 3 năm.

d. Nghiên cứu tác dụng gây động dục của lá và rễ phụ so sánh với rễ củ Tam thất thì thấy lá Tam thất có hoạt tính yếu hưo khoảng 8 - 10 lần so với rễ củ Tam thất 5 năm.

  1. Tác dụng tiêu viêm: Nước sắc Tam thất có tác dụng chống viêm đối với chuột cống gây viêm khớp thực nghiệm ( ảnh hưởng của nước sắc Tam thất đối với viêm khớp thực nghiệm, Dược học học báo 12:446-451.1965).
  2. Nước ngâm kiệt Tam thất trên ống nghiệm có tác dụng ức chế nhiều loại nấm ngoài da ( Tạp chí Bệnh ngoài da Trung hoa:286-292,1957).

Ứng dụng lâm sàng:

1.Trị các chứng xuất huyết:

  • Dùng dịch tiêm Tam thất trị xuất huyết đường tiêu hóa trên 110 ca, hiệu quả tốt hơn 50 ca đối chiếu dùng Tây y. Số bệnh nhân bao gồm loét hành tá tràng 113 ca, viêm dạ dày mạn 19 ca, loét dạ dày 6 ca, loét hổn hợp 4 ca, 18 ca chưa phát hiện bệnh lý. Tổ điều trị dùng dịch tiêm Tam thất do Xí nghiệp 1 Thượng hải sản xuất ( 2ml/ống hàm lượng 1g thuốc sống) liều 8 - 16ml gia vào dung dịch gluco đẳng trương 500ml truyền tĩnh mạch ngày 1 lần, không dùng các loại thuốc cầm máu khác gia vào dịch gluco đẳng trương, lượng và truyền như nhau. Kết quả: Tổ dùng Tam thất máu trong phân chuyển âm tính bình quân sau 5,98 ngày, thời gian nằm viện trung bình 15,2 ngày. Tổ Tây y, máu trong phân chuyển âm tính bình quân sau 9,12 ngày và thời gian nằm viện trung bình 21,64 ngày ( P nhỏ hơn 0,02 có ý nghĩa thống kê) (Theo Phạm xương Háo và cộng sự, Báo cáo 110 ca huyết xuất đường tiêu hóa trên chữa bằng bằng dịch tiêm Tam thất, Tạp chí Trung y dược Thượng hải 1983,9:15).
  • Trị xuất huyết bao tử: dùng bột Tam thất mỗi lần 1,5g x 3 lần/ngày, uống với nước ấm, bệnh nhân nghỉ tại giường, trừ trường hợp nôn ra máu còn ăn bình thường, chế độ lỏng hoặc bán lỏng, sau khi máu trong phân âm tính còn uống thêm 2 ngày để củng cố. Kết quả 60 ca chảy máu khỏi hoàn toàn 58 ca, không khỏi 2 ca ( La Dụ Dân, Bột Điền thất trị xuất huyết bao tử, Tạp chí Trung y Vân nam 1985,1:28).
  • Trị loét dạ dày chảy máu cấp lượng nhiều: Hòa bột Tam thất 10g vào 30 - 50ml nước muối sinh lý, cứ mỗi 6 - 8 giờ bơm vào dạ dày 1 lần, kẹp ống trong một giờ rồi hút dịch dạ dày cho đến khi dịch không còn máu tươi, lưu ống dạ dày 2 - 3 ngày sau đó tiếp tục cho uống bột Tam thất mỗi lần 10g, 3 - 5 lần. Thời gian hết máu tươi trong dịch dạ dày từ 12 giờ ( ngắn nhất) đến 96 giờ ( dài nhất) bình quân 55,33 giờ, sắc phân trở lại bình thường 2 - 8 ngày, bình quân 3,83. Tác giả trị 6 ca, trừ 1 ca hết chảy máu và chết sau 5 ngày do viêm phổi và nhiễm trùng huyết, còn tất cả đều khỏi ( Dương quốc Phong, trị dạ dày chảy máu cấp do loét, Thực dụng ngoại khoa tạp chí 1982,4:90).
  • Trị ho ra máu: Bột Tam thất mỗi lần uống 6 - 9g, ngày 2 - 3 lần. Trị dãn phế quản, lao phổi và áp xe phổi kèm ho ra máu: 10 ca uống thuốc 5 ngày, cầm máu trong đó hoàn toàn cầm máu 8 ca, còn 2 ca cầm máu được 1 - 2 tuần lại ho ra máu ít ( Trịnh Hỉ Vân, sơ bộ quan sát bột Tam thất trị ho ra máu - Tạp chí Trung y 1965,11:29).
  • Trị tiểu ra máu: Trị 39 ca bệnh nhân tiểu ra máu, mỗi 4 - 8 giờ uống bột Tam thất 0,9 - 1,5g, đại bộ phận bệnh nhân sau khi dùng thuốc trên dưới 3 ngày hết tiểu ra máu ( Khoa Tiết niệu ngoại Bệnh viện số 1 Cáp nhĩ Tân, Quan sát lâm sàng dùng bột Tam thất trị tiểu ra máu, Báo Đại học Y Cáp nhĩ tân 1974,7(2):51).
  • Trị xuất huyết nhãn tiền phòng: do chấn thương nhãn tiền phòng xuất huyết 21 ca, trường hợp xuất huyết nhẹ, nhỏ mắt 2% dịch Tam thất, ngày 6 lần. Trường hợp xuất huyết nhiều ngoài việc nhỏ mắt dùng thêm phương pháp thẩm thấu Ion 10% dịch Tam thất ngày 1 lần, mỗi lần 20 phút. Kết quả trừ 1 ca xuất huyết lâu ngày teo cũng mạc không kết quả, 1 ca xuất huyết giác mạc nhuộm máu kết quả không rõ, còn lại vài ngày sau hết, thị lực hồi phục nhanh ( Trạm bảo vệ sức khỏe Xưởng điện cơ Thượng hải,1978,3:16).

2.Trị chấn thương sọ não: cho uống bột Tam thất 3g ( hôn mê cho xông qua mũi) ngày 2 - 3 lần, theo dõi trị 40 ca, có kết quả 75% đối với thể nhẹ và vừa, kết quả tốt, ý thức hồi phục nhanh, triệu chứng thần kinh và cảm giác chủ quan được cải thiện, nước não tủy trong nhanh, lưu lượng máu, lực cản mạch máu não và phù não đều được cải thiện. Thời gian dùng thuốc 3 - 10 ngày dài nhất 21 ngày, trường hợp nặng dùng thêm lợi niệu, trụ sinh, an thần.( Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện thực hành số 1 thuộc Y học viện Quảng tây - Quan sát kết quả điều trị 40 ca chấn thương sọ não điều trị bằng Tam thất, Báo Tân y học 1979,10(7):330).

3.Trị bệnh mạch vành:

  • Dùng Tam thất Quan tâm ninh ( chiết xuất từ Tam thất ) trong 28 Bệnh viện của tỉnh đã tổng kết 828 ca bệnh mạch vành, mỗi ngày uống 0,6 - 1,2g; 778 ca đau thắt ngực có kết quả 70,2% kết quả rõ rệt 20,1% ( trong tổng số liệu trình từ 4 đến 6 tháng, tỷ lệ kết quả 82,7%; 625 ca kiểm tra điện tâm đồ có kết quả 34,8%, kết quả rõ rệt 14,2% ( Phóng viên Báo Trung thảo dược ghi báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tại Côn minh về kiểm định bài thuốc Tam thất quan tâm ninh - Báo Trung thảo dược 1980,11(10):439).
  • Phức phương Tam thất quan tâm phiến gồm: Tam thất 0,8g, Diên hồ sách 4g, Hồng hoa, Chế thủ ô, Kê huyết đằng mỗi thứ 12g, Một dược 2g. Tất cả đều lượng 1 ngày chia 3 lần uống, 30 ngày là một liệu trình, dùng trị 1 - 2 liệu trình nhận thấy kết quả: 68 ca đau thắt tim ( 127 lần), tỷ lệ kết quả 88,2%, trước khi dùng thuốc có 52 lần đã dùng Nitroglycerin, sau khi điều trị bằng phức phương Tam thất có 73,1% không dùng hoặc giảm liều. Tỷ lệ có kết quả điện tâm đồ 26,7% ( Tổ phòng trị bệnh mạch vành, Tổng Y viện Giải phóng quân Nhân dân Trung quốc - Quan sát kết quả điều trị bệnh mạch vành bằng Quan tâm phiến 68 ca, Tạp chí Tân y dược học 1973,10:12).

4.Trị chứng tăng lipid huyết: Tác giả dùng bột Tam thất sống cho uống 0,6g x 3 lần/ngày. Trị 10 ca huyết áp cao, bệnh mạch vành, xơ mỡ mạch não kèm theo lipid máu và cholesterol cao đã phát hiện lipid máu và cholesterol đều giảm. Cho uống liên tục 1 tháng, lipid huyết bình quân từ 1179,2mg% xuống còn 718,4mg%, cholesterol từ 272,6mg% xuống còn 185mg% ( Trương Côn, Tác dụng của Sinh Tam thất đối với hạ lipid và cholesterol máu - Tạp chí Tân y dược học 1973,10:13).

5.Trị bệnh gan:

  • Tác giả cho bệnh nhân gan mật và những bệnh nhân không rõ nguyên nhân 45 ca có SGPT tăng cao uống bột Tam thất 1g/lần, ngày 3 lần liên tục trong một tháng có 44 ca có SGPT hạ bình thường, trong đó có 10 ca viêm gan ạn có protit huyết tương được cải thiện ( Trương Côn, Tác dụng hạ SGPT và cải thiện Protit huyết tương của bột Tam thất, Trung y tạp chí 1980,5:25).
  • Dùng dịch tiêm Tam thất trị viêm gan mạn 65 ca thể huyết ứ, chích với liều lượng khác nhau, chích bắp hoặc tĩnh mạch, mỗi ngày 1 ống ( 1 ống 2ml có 1g thuốc sống) có 25 ca, chích 2 ống 34 ca, chích 3 ống 6 ca, 1 lần/1 ngày, một liệu trình 3 - 4 tháng. Kết quả tốt 47 ca, có chuyển biến 5 ca, không kết quả 13 ca, tỷ lệ kết quả 80,0% ( Thiện Minh và cộng sự, Tiêm dịch Tam thất trị viêm gan mạn thể huyết ứ, Thượng hải Trung y dược tạp chí 1983,8:12).

6.Giới thiệu một số kinh nghiệm dùng Tam thất trị bệnh:

  • Trị té ngã chảy máu trong và ngoài da, có ứ huyết đau, cho uống bột Tam thất 4g với nước cơm hoặc cho uống với 30 - 40ml rượu trắng, ngoài xoa bột Tam thất 2g, phối hợp với Long cốt nung, Ngũ bội tử mỗi thứ 15 - 20g.
  • Trị thổ huyết ho ra máu dùng bài An huyết ẩm ( bột Tam thất 4g, Bạch cập 16g, nước củ sen 1 chén con 5 - 10ml), Bạch mao căn 30g, Mẫu lệ 20g, Đại hoàng chế 8g sắc uống.
  • Trị băng lậu, kinh nguyệt ra nhiều, có huyết cục, dùng Tam thất kết hợp với Ngũ vị tử, Nhục quế, Đơn bì, Xích thược.
  • Trị cơn đau thắt ngực: dùng bột Nhân sâm và Tam thất mỗi thứ 2g, hòa nước uống.

Liều và cách dùng:

  • Thuốc bột: 2 - 8g/ 1 lần, cấp có thể dùng 4 - 5 lần/ngày.

Read On 0 nhận xét

Tam thất


Tam thất là rễ củ của cây Panax pseudo - ginseng Wall, họ Nhân sâm

Tính năng theo Ðông y

- Vị ngọt hơi đắng tính ôn, vào hai kinh Can Vị

- Công dụng : chỉ huyết, hành huyết, tiêu sưng, giảm đau

- Chủ trị : uống trong chữa thổ huyết, chảy máu cam, băng huyết, đại tiện ra huyết. Dùng ngoài trị ngã tổn thương, cầm máu các vết thương


Tính năng theo Tây y

1. Thành phần : có saponin, tương tự như saponin của Nhân sâm; hoạt chất cầm máu trong tam thất là decichine. Ngoài ra còn có alcaloit, protid, saccharide, lipit, tinh dầu, các axitamin tự do, caroten, canxi.


2. Tác dụng dược lý :

- Có tác dụng cầm máu

- Tổng saponin có tác dụng giảm đau rõ rệt

- Trên hệ tim mạch với chó gây mê dịch tiêm tam thất có tác dụng hạ áp, làm chậm nhịp tim, tăng lưu lượng máu động mạch vành, giảm lực cản động mạch vành, giảm thấp lượng tiêu hao oxy của cơ tim.

làm hạ cholesterol và triglycerit, thúc đẩy quá trình tổng hợp protein của gan.

- Độc tính của thuốc : tổng saponin tiêm dưới da chuột nhắt LD50 = 1246 mg/kg ; tiêm tĩnh mạch chuột nhắt LD50 = 628 mg/kg.


3. Ứng dụng lâm sàng

- Trị các chứng xuất huyết : chảy máu dạ dày, ho ra máu, tiểu ra máu, xuất huyết tiền phòng.

- Trị chấn thương sọ não

- Trị cholesterol máu cao, viêm gan mạn.
- Dùng Tam thất quan tâmninh trong 28 bệnh viện của 7 tỉnh trị các bệnh mạch vành với liều 0,6 - 1,2 g/ngày ; 778ca đau thắt ngực có kết quả 70,2% , kết quả rõ rệt 20,1% .625 ca kiểm tra ECG có kết quả 34,8%, kết quả rõ 14,2% . ( Hội nghị toàn quốc toàn quốc về kiểm định bài Tam thất quan tâm ninh , báo Trung thảo dược 1980 ).

- Phức phương tam thất quan tâm phiến :Tam thất 0,8g, diên hồ sách 4g, hồng hoa, chế thủ ô, kê huyết đằng 12g, một dược 2g; tất cả chia 3 lần trong ngày uống trong 30 -60 ngày, kết quả 73,1% không dùng hoặc giảm liều nitroglycerin, có kết quả ECG 26,7%.( Tổng y viện quân giải phóng TQ , Tạp chí y dược học 1973)


Liều dùng : 4 - 5 g/ngày

Read On 0 nhận xét

Những bài thuốc từ vừng

Hạt vừng (còn gọi là mè) có 2 loại: vừng vàng và vừng đen, có tên khoa học là Sésamum indicum D.C. Theo Đông y, vừng có tác dụng ích gan (tăng cường chức năng gan), bổ thận, dưỡng huyết, nâng cao thể lực, nuôi dưỡng não tủy, bền gân cốt, minh mục (làm sáng mắt), kéo dài tuổi thọ, tăng tiết sữa, làm vết thương mau lành, chống táo kết, trị bỏng, chống loãng xương, đặc biệt là làm quên cảm giác đói, rất có lợi đối với người thừa cân (để điều trị béo phì).

Một số bài thuốc đơn giản từ hạt vừng:

- Làm thuốc bổ dưỡng: dùng dầu vừng từ 10 - 25 ml/ngày, dùng liên tục khoảng 30 - 40 ngày; hoặc dùng viên vừng (thường dùng loại vừng đen): sao chín, giã nhỏ, dùng nước cơm nhào đều, viên thành từng viên nhỏ (bằng hạt đậu xanh), sấy khô, ngày dùng từ 15 - 30 gr (hoặc tán thành bột và cũng dùng như trên).

- Lợi sữa: Phụ nữ sau sinh nếu ít sữa dùng vừng (vừng vàng hay đen đều được) sao cho chín, hoặc giã nát (thêm ít muối để dễ ăn), hoặc để nguyên cả hạt, mỗi ngày ăn khoảng 50 gr (nếu để nguyên hạt cần nhai thật nhuyễn).

- Bị bỏng hoặc vết thương lâu lành: bôi dầu vừng lên vết thương (sau khi đã làm sạch vết thương), sau 5 - 7 ngày vết thương sẽ lên da non và mau lành, có thể tránh được sẹo lồi.

- Trị cao huyết áp, bán thân bất toại (di chứng của tai biến mạch máu não), xơ vữa mạch máu…: Vừng đen đã sao chín, dùng cùng với hà thủ ô, ngưu tất, liều lượng bằng nhau, số lượng không hạn chế, tán mịn, dùng nước cơm trộn đều viên thành từng viên nhỏ, ngày dùng 30 - 40 gr (chia làm 3 lần: sáng, trưa, chiều), chiêu với nước ấm. Trị táo bón: dầu vừng 40 - 60 ml/ngày (uống 1 lần) hoặc ăn vừng 50 gr/ngày.

Phong trào ăn gạo lứt muối mè lâu nay cũng xuất phát từ những tác dụng của gạo lứt và vừng như đã trình bày, riêng về tác dụng của gạo lứt, chúng tôi sẽ đề cập trong một dịp khác.

Bảo Trân
http://www6.thanhnien.com.vn/Suckhoe/2008/3/25/231782.tno
Read On 0 nhận xét

Đông y giải rượu thế nào?

Nếu dùng rượu biết cách và có chừng mực, thì sẽ giúp máu huyết lưu thông, ăn uống ngon miệng… Tuy nhiên, nếu lạm dụng sẽ gây hại đến sức khỏe.

Các bài thuốc từ cây lá

Vào những ngày lễ, Tết, những dịp vui vẻ, khi gia đình và bạn bè tụ họp, uống một chút rượu không những làm tăng thêm phần hứng khởi mà còn giúp cho khí huyết được lưu thông dễ dàng, tỳ vị trở nên ấm áp, ăn uống cảm giác ngon miệng hơn lại phòng chống được chứng bệnh cảm mạo do phong hàn gây ra. Tuy nhiên, nếu ham vui quá chén để lâm vào tình trạng say bí tỉ thì cuộc vui chẳng những sớm tàn mà sức khỏe cũng bị ảnh hưởng, thậm chí có thể dẫn đến tình trạng ngộ độc rượu rất nguy hiểm.

Bài viết này nói về những kinh nghiệm dân gian và các biện pháp đơn giản của y học cổ truyền có hiệu quả trong việc giải rượu.

Trước hết, cần cho người say uống một lượng nước vừa đủ, ít nhất cũng bằng lượng rượu uống vào, nhằm pha loãng nồng độ rượu trong cơ thể và giúp cho quá trình đào thải rượu được nhanh chóng và thuận lợi. Sau đó, tùy theo điều kiện cụ thể mà có thể dùng một trong những bài thuốc dưới đây:

Dùng 1 quả chanh tươi vắt lấy nước để uống, hoặc thái mỏng chanh để ăn luôn cả quả càng tốt; dùng lá dong (loại lá dùng để gói bánh chưng) 100-200 gr rửa thật sạch, giã nát vắt lấy nước cốt để uống; lấy vỏ quýt phơi khô (càng để lâu năm càng tốt) độ 30 gr sao thơm tán vụn, 2 quả mơ chua bỏ hột thái vụn.

Đem cả hai sắc nhỏ lửa với 360 ml nước, sau 30 phút lọc bỏ bã lấy nước uống. Nếu có thêm một chút nước gừng tươi hoặc trà thì càng tốt; dùng 60 gr vỏ cam rửa sạch, sấy khô, tán bột, cho uống 6 gr với nước ấm, nếu chưa công hiệu thì uống thêm một vài lần nữa; dùng một nắm trà diệp, 60 gr đậu xanh đập vụn, 10 gr lá long não.

Tất cả đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng được, chia uống vài lần; dùng loại trà búp 5 gr, quất khô (có thể dùng mứt quất hoặc quất tươi cũng được) 16 gr thái vụn. Hai thứ đem hãm với nước sôi, uống đặc; lấy 9 gr trà búp, 60 gr cà rốt tươi, 15 gr vỏ bí xanh đem sắc (nấu) nước để dùng; dùng quả cau tươi bỏ vỏ xanh và hạt 50 gr, cam thảo 12 gr (nửa để sống, nửa sao muối).

Tất cả đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, chia uống vài lần; dùng hoa sắn dây (nếu không có thì dùng củ sắn dây thay thế) 10 gr đem sắc uống. Cũng có thể hãm cùng trà búp 5 gr, đậu xanh 10 gr với nước sôi, chia uống vài lần; lấy 50 gr vỏ quả chanh, 50 gr vỏ quả quýt, 25 gr hoa sắn dây, 25 gr hoa đậu xanh, 10 gr nhân sâm, 10 gr nhục đậu khấu, 30 gr muối ăn. Các vị sấy khô, nghiền thành bột, đựng trong bình kín để dành dùng dần. Khi say rượu, lấy 5-7 gr pha nước uống, mỗi ngày 3 lần.

Và biện pháp bấm huyệt

Trước hết, tiến hành day bấm huyệt yêu nhãn từ 3-5 phút. Vị trí huyệt yêu nhãn: giơ cao tay và nghiêng mình một chút, chỗ lõm hai bên thắt lưng (tương ứng với đốt sống thắt lưng 4) hiện rõ, huyệt nằm ở giữa đáy lõm từ mỏm gai đốt sống thắt lưng 4 đo ngang ra 3,8 tấc. Tiếp theo, tiến hành day bấm huyệt thái xung từ 3-5 phút.

Vị trí huyệt thái xung: ép ngón chân cái vào ngón thứ 2, huyệt nằm ở mu bàn chân, đo từ đầu kẽ hai ngón chân lên 2 tấc. Cũng có thể xác định bằng cách lấy huyệt ở điểm giữa đường nối đầu ngón chân cái với nếp gấp ngang cổ chân. Cuối cùng, tiến hành xoa xát toàn bộ mu bàn chân. Nếu người say có thể đứng được thì dùng gót chân này giẫm mạnh và xoa mu bàn chân kia và ngược lại từ 5 - 6 phút.

Các biện pháp giải rượu trên đơn giản, dễ kiếm, dễ làm. Nhưng lưu ý, với những trường hợp uống quá nhiều rượu bị ngộ độc rượu cần phải đến cơ sở y tế để khám và cấp cứu kịp thời.

Hoàng Khánh Toàn
Read On 0 nhận xét

Kinh nghiệm châm cứu điều trị liệt mặt

Liệt dây thần kinh số VII ngoại vi, gọi tắt là liệt mặt ngoại vi (facial paralysis), là một bệnh rất thường gặp Trong Đông y, cǎn bệnh này thuộc phạm vi các chứng "khẩu nhãn oa tà", "khẩu tịch", "điếu tuyến phong"... với đặc điểm bệnh lý là mạch lạc không hư, phong hàn phong nhiệt xâm nhập, khí huyết trở trệ, cân mạch thất dưỡng... biểu hiện bằng các dấu hiệu miệng méo, mắt nhắm không kín, nếp nhǎn tự nhiên mờ hoặc mất, không thổi sáo, thổi lửa được ǎn vãi, chảy nước mắt, giảm vị giác...

Các biện pháp điều trị chứng bệnh này của y học cổ truyền cũng hết sức phong phú và thường đem lại kết quả khả quan, trong đó không thể không đề cập đến việc sử dụng các thủ thuật châm cứu. Tuy nhiên, không hiếm trường hợp mặc dù xoay sở đủ cách nhưng tình trạng liệt chỉ đỡ rất ít hoặc không đỡ, thậm chí còn để lại các di chứng như co giật các cơ ở mặt, đau tê kéo dài... Bởi thế, cho đến nay các nhà châm cứu vẫn phải tiếp tục dày công nghiên cứu để tìm ra các công thức huyệt vị và kỹ thuật châm cứu hữu hiệu nhất cho việc điều trị liệt mặt.

ở Trung Quốc, trong vài chục nǎm gần đây, chỉ tính riêng việc sử dụng các kỹ thuật châm và cứu để giải quyết cǎn bệnh này đã có đến hơn 100 công trình nghiên cứu khác nhau. Dưới đây xin được giới thiệu một số kinh nghiệm đặc sắc của các nhà châm cứu nước bạn, chủ yếu là các kỹ thuật thể châm, để độc giả có thể tham khảo và vận dụng trong nghiên cứu và điều trị.

1 . Viên Thanh Thuận (1 987) đã thực hiện phương pháp lấy huyệt kết hợp cục bộ và toàn thân. Các huyệt cục bộ gồm : giáp xa, địa phương (hai bên), cự khuyết, thừa khấp, ngư yêu, tứ bạch (bên bệnh). Các huyệt toàn thân gồm thái xung, hợp cốc. Thủ pháp châm : huyệt cục bộ châm xuyên huyệt, ngược chiều với hướng lệch của miệng ; giáp xa xuyên địa phương (bên lành), châm bổ, địa phương xuyên giáp xa, cự khuyết xuyên thừa khấp, ngư yếu xuyên dương bạch (bên bệnh), châm tả ; châm bình bổ bình tả thái xung và hợp cốc. Hiệu quả trị liệu đạt 96%, trong đó khỏi hoàn toàn 84%.

2. Mục Thục Khôn (1989) châm dương bạch xuyên ngư yêu, dương bạch xuyên toàn trúc, giáp xa xuyên địa phương, thái dương xuyên ty trúc không, tứ bạch xuyên nghênh hương, cự khuyết xuyên thừa khấp, ế phong và hợp cốc. Gia giảm, đau đầu châm đầu duy, phong trì, bách hội ; mắt nhắm không kín châm tình minh, đồng tử liêu. Hiệu quả điều trị đạt 98,7%, trong đó khỏi hoàn toàn 93,2%.

3. Giang Sơn (1989) đã sử dụng một huyệt kinh nghiệm làm chủ huyệt, vị trí : ở điểm nối giữa 1/3 trong và 2/3 ngoài đường nối hai huyệt địa phương và giáp xa. Các huyệt phối hợp tùy theo bệnh tình cụ thể mà lựa chọn từ 1 - 2 huyệt : nếu bệnh khởi phát trong vòng 1 tuần chọn phong trì, thái dương, ế phong, hợp cốc, túc tam lý ; nếu bệnh khởi phát trong vòng 2 tuần đến 1 tháng chọn ế phong (hoặc khiên chính), đầu duy xuyên huyền ly, ngoại quan, hợp cốc thái xung, túc tam lý ; nếu bệnh khởi phát trên 1 tháng chọn tình minh, nghênh hương, thiên dung, liệt khuyết, chiếu hai, thái xung, túc tam lý.

Thao tác kỹ thuật : dùng kim hào châm dài 2 thốn châm nghiêng 15o Xuyên tới huyệt hạ quan, vừa tiến kim vừa vê nhẹ nhàng sao cho cảm giác tê tức lan ra má, mắt, miệng, mũi và sau tai là đạt, lưu kim 15 - 30 phút các huyệt phối hợp châm tả nếu do phong nhiệt, châm bổ nếu do phong hàn. Trị liệu 713 ca đạt hiệu quả 100%, 75% khỏi hoàn toàn.

4. Kim Bá Hoa (1986) dùng ế phong làm chủ huyệt phối hợp với giáp xa, địa thương, nhân trung, thừa tương, toàn trúc. tứ bạch, hợp cốc và túc tam lý. Thao tác : châm ế phong hướng mũi kim về phía chóp mũi, tiến kim từ từ sâu khoảng 1 ,5 thốn sao cho có cảm giác tê tức, chướng nóng lan ra mặt là đạt (tả pháp); các huyệt khác châm bình bổ bình tả. Mỗi ngày châm 1 lần, 10 lần là 1 liệu trình. Đạt hiệu quả 100%.

5. Tân Tuyên Anh (1982) sử dụng 2 nhóm huyệt, nhóm 1 : dương bạch xuyên ngư yêu, địa thương xuyên giáp xa, ế phong, nghênh hương, hợp cốc ; nhóm 2 : toàn trúc, tình minh, cự khuyết xuyên thừa khấp, phong trì, dương lǎng tuyền. Thao tác : châm 2 nhóm thay thế nhau, lưu kim 15 phút, mỗi ngày 1 lần, 7 lần là 1 liệu trình, giữa 2 liệu trình nghỉ 3 ngày. Trị liệu 413 ca, đạt hiệu quả 99,7%, khỏe hoàn toàn 97,3%.

6. Quan Nhàn Thanh (1 990) dùng phương pháp "bốn kim tám huyệt" gồm dương bạch xuyên ngư yêu, tứ bạch xuyên nghênh hương, nghênh hương xuyên tình minh, địa thương xuyên giáp xa, phối hợp thêm hợp cốc. Gia giảm : đau và ù tai gia ế phong, đau mỏi cổ gia phong trì, đau nửa đầu gia thái dương.

Chọn dùng kim hào châm số 28 dài 2 thốn ; bệnh nặng, mắc lâu ngày, thể trạng suy nhược "dĩ hư giả bổ chi"; bệnh nhẹ, mới mắc, thể trạng tốt "dĩ thực giả tả chi". Trị liệu 1 170 ca đạt hiệu quả 99,8%, khỏi hoàn toàn 80,9%.

7. Đỗ Thiếu Hoa (1991) châm bình bổ bình tả hữu thái dương, phong trì, ế phong, khiên chính, liệt mặt thượng (ở ngoài huyệt thái dương 5 phân), liệt mặt hạ (trung điềm đường nối địa thương và giáp xa), dương bạch xuyên ngư yêu, địa phương xuyên giáp xa, nghênh hương, tả hợp cốc, lưu kim 30 phút, mỗi ngày châm 1 lần, 10 lần là 1 liệu trình.

8. Mã Thụy Lâm (1981) chọn dùng các huyệt tại chỗ và lân cận gồm dương bạch, đồng tử liệu, phong trì, tứ bạch, giáp xa, địa thương, hạ quan, nghênh hương, quyền liêu, ngư yêu, nhân trung, thừa tương, hòa liêu (chọn châm mỗi lần 3 - 4 huyệt) và các huyệt ở xa gồm hợp cốc, chi câu, túc tam lý. Các huyệt cục bộ dùng bổ pháp, các huyệt ở xa dùng tả pháp. Trị liệu 1 195 ca đạt hiệu quả 99,4%. khỏi hoàn toàn 80,7%.

9. Vương Minh Minh (1992) dùng các huyệt khuyết bền, ế phong, giáp xa, địa phương, hạ quan, tứ bạch. Khuyết bồn châm thẳng hoặc chếch sâu 0,3 - 0 5 thốn, các huyệt khác châm bình bổ bình tả. Trị liệu 80 ca, khỏi 72 ca, đạt hiệu quả 97,5%. Châm cách nhiệt, 7 lần là 1 liệu trình.

10. Vương Dân Tập (1993) chọn dùng các chủ huyệt : dương bạch, toàn trúc, tự trúc không, tứ bạch, hạ quan, địa phương, giáp xa, hợp cốc và các phối huyệt : ế phong và hoàn cốt khi có đau và ù tai, phong trì khi đau cứng cổ gáy, trung chữ khi đau đầu và chóng mặt, túc tam lý khi bệnh lâu thể trạng suy nhược. Thủ pháp : châm địa phương và giáp xa bên liệt hướng xuyên lẫn nhau, châm dương bạch, toàn trúc và ty trúc không xuyên tới ngư yêu, châm tứ bạch nghiêng kim 15o Xuyên tới địa thương ; châm tả, lưu kim 30 phút, vê kim 2 lần, bệnh mới châm hàng này, 10 ngày là 1 liệu trình, bệnh cũ châm bổ cách nhật. Hiệu quả trị liệu đạt 98,6%, khỏi hoàn toàn 80,1%.

11 . Hoàng Trí Hoa (1995) chọn ế phong làm chủ huyệt phối hợp với hạ quan, địa thương, thừa tương, nhân trung, giáp xa, hợp cốc và túc tam lý. Thao tác: trước hết day xoa ế phong cho nóng lên rồi châm, nếu bị liệt bên trái thì hướng mũi kim về phía huyệt khiên chính bên phải và ngược lại. Trị liệu 36 ca đạt hiệu quả 100%, khỏi hoàn toàn 72,2%.

12. Vương Hiếu Lợi (1 991) chỉ châm huyệt phong long. Thao tác: người bệnh nằm, dùng kim hào châm dài 3,5 thốn châm nhanh qua da tiến sâu 3 thốn, khi đắc khí thì vê nhẹ, lưu kim 30 phút. Trị liệu 102 ca đạt hiệu quả 98%, khỏi hoàn toàn 75,5%.

13. Ngải Hồng Thọ (1989) sử dụng địa thương và khiên chính làm chủ huyệt phối hợp với hợp cốc, lao cung. Thao tác: châm kim từ địa thương xuyên tới khiên chính, vê nhanh và lắc kim để đạt đắc khí, không lưu kim. Sau đó, châm tiếp hợp cốc xuyên lao cung, kích thích mạnh, không lưu kim. Trị liệu 100 ca, trong đó có 76 ca mới bị chỉ châm 1 lần đã khỏi 53 ca, đỡ nhiều 18 ca, đỡ ít 5 ca, 24 ca bị bệnh kéo dài 3 - 7 tháng sau khi châm 1 lần khỏi 3 ca, đỡ nhiều 12 ca, đỡ ít 7 ca, không đỡ 2 ca.

14. Lữ Cǎn Vinh (1986) chọn dùng các huyệt địa thương, giáp xa, quyền liêu, phong trì, dương bạch, hợp cốc, túc tam lý. Thao tác: châm địa thương xuyên giáp xa, quyền liêu xuyên địa thương, thái dương xuyên giáp xa, dương bạch xuyên ngư yêu. Các huyệt khác đều châm thẳng, lưu kim 30 phút, vê kim 3 - 5 lần. Hiệu quả trị liệu 100%.

Như vậy có thể thấy, chỉ riêng về phương diện sừ dụng thể châm điều trị liệt mặt, kinh nghiệm của các tác giả Trung Quốc đã hết sức phong phú. Đó là chưa kể đến các phương pháp khác như cứu, thủy châm, điện châm, laser châm, từ châm, dán thuốc trên huyệt... hoặc phối hợp giữa các phương pháp

Hoàng Khánh Toàn
Khoa Đông Y - Viện Quân y 108
Read On 0 nhận xét
 

MedicineNet Daily News

Medscape Medical News Headlines

WebMD Health


About me | Author Contact | Powered By Blogspot | © Copyright  2008