Hiển thị các bài đăng có nhãn Nội Khoa - thần kinh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nội Khoa - thần kinh. Hiển thị tất cả bài đăng

Neuroanatomy Tutorial 34 (Motor Pathway)

Clip về giải phẫu đường thần kinh
thời gian: 03:09
Motor Pathway

Read On 0 nhận xét

Rối loạn quá hiếu động - thiếu tập trung (ADHD)

Rối loạn quá hiếu động - thiếu tập trung (ADHD) là một rối loạn mạn tính chủ yếu xảy ra ở trẻ em và có thể tồn tại đến tuổi trưởng thành. Những vấn đề chính có liên quan đến AĐH là thiếu tập trung, quá hiếu động và hành vi bốc đồng.

Dấu hiệu và triệu chứng

Các triệu chứng của ADHD thường rơi vào 2 mục lớn:

- Thiếu tập trung

- Hành vi quá hiếu động - bốc đồng

Những triệu chứng này phải tác động đến khả năng hoạt động của trẻ ở ít nhất 2 lĩnh vực của cuộc sống, thường là ở nhà và ở trường. Trẻ có vấn đề ở trường nhưng vẫn hòa hợp tốt ở nhà hoặc với bạn bè không được xem là bị ADHD, điều này cũng đúng với trẻ quá hiếu động hoặc thiếu tập trung ở nhà những việc học tập và quan hệ bạn bè không bị ảnh hưởng bởi hành vi của trẻ.

Ở phần lớn trẻ có chẩn đoán ADHD, dấu hiệu và triệu chứng xuất hiện trước khi trẻ được 7 tuổi, mặc dù đôi khi xảy ra sớm hơn.

Nguyên nhân

Biến đổi chức năng và giải phẫu của não.

Di truyền.

Mẹ hút thuốc lá, sử dụng thuốc hoặc tiếp xúc với chất độc.

Trẻ bị tiếp xúc với chất độc trong môi trường.

Xét nghiệm và chẩn đoán

Hiện chưa có xét nghiệm đặc hiệu nào để chẩn đoán ADHD. Đánh giá thường bắt đầu bằng việc tìm hiểu đầy đủ tiền sử bệnh tật, trường học và gia đình của trẻ. Khám thực thể để loại trừ các chứng bệnh khác có thể gây những dấu hiệu và triệu chứng tương tự ADHD. Cần xác định không chỉ hành vi của trẻ mà còn liệu hành vi đó đã có từ lâu hay mới diễn ra. Trẻ bị bệnh thường biểu hiện những hành vi này trong một thời gian dài và đặc biệt gặp khó khăn trong tình huống đòi hỏi sự nỗ lực hoặc trong những hoạt động đòi hỏi sự chú ý cao độ, như đọc sách hay làm toán.

Điều trị

Cách điều trị tối ưu cho ADHD vẫn còn đang tranh cãi. Nghiên cứu gần đây cho thấy phối hợp liệu pháp tư vấn và thuốc là cách điều trị hữu ích nhất

- Các liệu pháp tư vấn:

Liệu pháp tâm lý.

Liệu pháp hành vi

Liệu pháp gia đình

Dạy kỹ năng xã hội

Các nhóm hỗ trợ

Dạy kỹ năng làm cha mẹ .

- Thuốc: thuốc kích thần là loại thuốc chủ yếu được kê đơn trong điều trị ADHD. Những thuốc thường dùng nhất là:

Methylphenidate

Dextroamphetamine/amphetamine

Dextroamphetamine

Một thuốc khác cũng có cơ chế tác dụng tương tự nhưng không thuộc nhóm chất kích thích là atomoxetine. Đôi khi thuốc chống trầm cảm cũng được sử dụng, nhất là cho trẻ em và người lớn không đáp ứng với thuốc kích thần hoặc bị trầm cảm và các vấn đề khác.

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Bệnh thần kinh ngoại biên

Hệ thần kinh ngoại biên bao gồm tất cả các dây thần kinh không nằm ở não và tuỷ sống. Bệnh của hệ thần kinh ngoại biên gây rối loạn quá trình trao đổi thông tin giữa não và cơ, da, nội tạng và mạch máu, gây ra các triệu chứng như đau hoặc tê bì.

Dấu hiệu và triệu chứng

Triệu chứng tổn thương dây thần kinh cảm giác như đau, tê bì, cảm giác kiến bò, yếu cơ, bỏng rát hoặc mất cảm giác. Nhưng triệu chứng này thường bắt đầu từ từ. Ở một số người triệu chứng có thể rất nhẹ và không nhận thấy. Ở một số người khác, triệu chứng trở nên dai dẳng và gần như không thể chịu đựng nổi, nhất là về ban đêm.

Nếu dây thần kinh vận động bị ảnh hưởng, người bệnh có thể bị yếu hoặc liệt các cơ do dây thần kinh đó kiểm soát. Còn nếu tổn thương xảy ra ở các dây thần kinh thuộc hệ thần kinh tự động, bệnh nhân có thể bị rối loạn đại tiểu tiện, giảm tiết mồ hôi hoặc liệt dương, tụt huyết áp khi đứng gây choáng ngất.

Nguyên nhân

Tổn thương ở một dây thần kinh có thể do chấn thương hoặc chèn ép ở người bị bó bột hoặc phải dùng nạng lâu ngày, ở lâu trong một tư thế không tự nhiên như đánh máy tính, hoặc có khối u ở xương

Nguyên nhân hay gặp nhất là tiểu đường. Những nguyên nhân khác gồm nghiện rượu, HIV/AIDS, một số bệnh di truyền, nhiễm bột, thiếu vitamin, các bệnh như bệnh tự miễn, bệnh gan, bệnh thận và nhược giáp, tiếp xúc với một số chất độc và thuốc, nhất là thuốc điều trị ung thư, và nhiễm vi khuẩn hoặc virus.

Xét nghiệm và chẩn đoán

- Khám bệnh bao gồm hỏi bệnh sử, khám thực thể và khám thần kinh để kiểm tra phản xạ gân xương, cơ lực và trương lực cơ, cảm giác, tư thế và phối hợp động tác.

- Xét nghiệm nồng độ vitamin B12 trong máu, phân tích nước tiểu, xét nghiệm chức năng tuyến giáp và điện cơ. Xét nghiệm đo độ dẫn truyền thường được sử dụng để chẩn đoán hội chứng ống cổ tay và các rối loạn thần kinh ngoại vi khác.

Điều trị

- Mục tiêu điều trị là xử lý căn nguyên gây ra bệnh, sửa chữa thương tổn và giảm nhẹ triệu chứng.

- Điều trị căn nguyên:

Điều trị tiểu đường.

Bổ sung vitamin.

Điều trị các rối loạn tự miễn.

Giảm chèn ép dây thần kinh.

Ngừng tiếp xúc với các chất hoặc thuốc gây độc.

- Thuốc: có tác dụng làm giảm triệu chứng, bao gồm thuốc giảm đau, thuốc chống co giật, cao dán lidocain và các thuốc khác, bao gồm thuốc giảm đau opioid.

- Các liệu pháp

Kích thích điện dây thần kinh qua da.

Phản hồi sinh học.

Châm cứu.

Thôi miên.

Các kỹ thuật thư giãn.

Phòng bệnh

Điều trị những chứng bệnh có thể dẫn đến bệnh thần kinh ngoại biên.

Ăn uống lành mạnh, nhiều rau, hoa quả, ngũ cốc nguyên cám, những thực phẩm giàu vitamin B12

Tránh những động tác lặp đi lặp lại, tư thế bó buộc và hóa chất độc.

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Đau đầu hằng ngày mạn tính

Hầu như ai cũng có thể bị đau đầu vào lúc này hay lúc khác. Nhưng ước tính có 4 – 5% số người lớn bị đau đầu gần như hằng ngày. Nếu các cơn đau đầu xảy ra trên 15 ngày mỗi tháng, nó được gọi là đau đầu hằng ngày mạn tính.

Dấu hiệu và triệu chứng

Các dấu hiệu và triệu chứng tuỳ thuộc vào dạng đau đầu, ví dụ:

- Đau đầu hằng ngày mạn tính trong đau nừa đầu migrain: Cơn đau nửa đầu xảy ra ngày càng thường xuyên và cuối cùng có thể diễn ra suốt ngày. Đau dai dẳng ở rmột hoặc cả hai bên đầu, kèm theo đau ở vùng cổ và mặt. Những triệu chứng hay gặp của đau nửa đầu như buồn nôn, sợ ánh sáng và tiếng động thường giảm đi, nhưng đôi khi bệnh nhân vẫn có cơn đau nửa đầu.

- Đau đầu mạn tính dạng căng thẳng: Đau ở cả hai bên đầu và sau gáy, cảm giác đau âm ỉ hoặc như có một dải băng thắt chặt quanh đầu. Cơn đau có thể thay đổi trong ngày hoặc giữ nguyên trong nhiều ngày, nhiều tuần hoặc thậm chí hằng năm.

- Cơn đau đầu dai dẳng hằng ngày mới xuất hiện: Cơn đau dai dẳng hằng ngày xuất hiện đột ngột ở người không có tiền sử đau đầu. Đôi khi cơn đau khởi phát sau một nhiễm trùng, phẫu thuật hoặc stress, nhưng thường không có nguyên nhân. Đau có thể được mô tả là như dao đâm, âm ỉ, nhức nhối hoặc như bị bóp mạnh. Một số trường hợp cơn đau hết sau vài tháng. Một số khác cơn đau có thể kéo dài hàng chục năm.

- Đau nửa đầu trường diễn là một dạng đau đầu hằng ngày mạn tính. Đau xảy ra ở một bên đầu và khác nhau trong cường độ mà không bao giờ hết hoàn toàn. Cơn đau dữ dội có thể kèm theo chảy nước mắt hoặc đỏ mắt ở bên bị bệnh, sưng hoặc sụp mi, hắt hơi, chảy nước mũi, buồn nôn, nôn, sợ ánh sáng và tiếng ồn.

- Nguyên nhân

Nguyên nhân còn chưa được hiểu rõ. Những yếu tố có thể góp phần gây đau đầu mạn tính tiên phát bao gồm: lạm dụng thuốc, kíc thích hệ thần kinh trung ương do stress, nhiễm trùng hoặc chấn thương, cơ địa di truyền tăng nhạy cảm với đau, chấn thương hoặc kích thích gây đau ở tuỷ sống trên. Nguyên nhân của đau đầu mạn tính thứ phát bao gồm các bệnh như viêm mạch, khối u, nhiễm trùng hoặc rối loạn giấc ngủ.

Xét nghiệm và chẩn đoán

Hỏi về mức độ, tính chất và diễn biến của cơn đau, các thuốc và liều mà bệnh nhân đang sử dụng

Khám phát hiện các dấu hiệu của bệnh, nhiễm trùng hoặc các vấn đề về thần kinh. Có thể cần xét nghiệm nước tiểu và các xét nghiệm hình ảnh như chụp X quang, chụp CT hoặc MRI để chẩn đoán nguyên nhân.

Điều trị

Điều trị các chứng bệnh là nguyên nhân gây đau đầu

Điều trị phòng ngừa trước khi cơn đau xảy ra, những thuốc thường dùng là thuốc chống trầm cảm, chất chẹn beta, thuốc chống động kinh, thuốc giãn cơ, thuốc chống viêm phi steroid và một số loại thuốc khác.

Các biện pháp điều trị khác như châm cứu, bấm huyệt, thôi miên, thiền, xoa bóp, thuốc thảo dược, bổ sung vitamin và muối khoáng v.v…

Phòng bệnh

Tránh các tác nhân gây cơn đau.

Ngủ đủ.

Không bỏ bữa ăn

Thường xuyên tập luyện.

Giảm stress

Thư giãn

Bỏ thuốc lá.

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Đau thần kinh tọa

Thần kinh tọa là dây thần kinh dài nhất trong cơ thể, chạy từ vùng thắt lưng qua mông xuống mặt sau đùi và chân. Đau thần kinh tọa là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng đau bắt nguồn dọc theo đường đi của dây thần kinh này - từ lưng xuống mông và chân.

Dấu hiệu và triệu chứng

Đau bắt nguồn từ vùng thắt lưng chạy dọc xuống mông và mặt sau chân là dấu hiệu điển hình của đau thần kinh toạ. Các triệu chứng kèm theo có thể gồm:

- Tê hoặc yếu cơ dọc theo đường đi của dây thần kinh ở chân hoặc bàn chân. Một số trường hợp bệnh nhân có thể bị đau ở một vùng của chân và tê ở một vùng khác.

- Cảm giác kiến bò hoặc cảm giác như bị kim châm, hay gặp nhất ở ngón chân hoặc một phần bàn chân.

- Mất kiểm soát đại tiểu tiện. Đây là dấu hiệu của hội chứng đuôi ngựa, một tình trạng hiếm gặp nhưng nặng cần điều trị cấp cứu.

Nguyên nhân

Đau thần kinh toạ thường xảy ra khi rễ thần kinh ở vùng cột sống thắt lưng bị chèn ép. Các nguyên nhân hay gặp gồm:

Thoát vị đĩa đệm

Hẹp ống tuỷ vùng cột sống thắt lưng

Trật đốt sống

Hội chứng cơ tháp

Khối u ở cột sống

Chấn thương

Khối u hoặc chấn thương dây thần kinh toạ

Xét nghiệm và chẩn đoán

- Các xét nghiệm cơ bản kiểm tra sức mạnh và phản xạ

- Chụp X quang xương sống có thể phát hiện được khối u, hẹp đĩa đệm hoặc trật đốt sống.

- Chụp cộng hưởng từ: là xét nghiệm nhạy nhất để đánh giá đau dây thần kinh toạ. Xét nghiệm có thể phát hiện được tổn thương đĩa đệm và dây chằng cũng như khối u

- Chụp cắt lớp vi tính có thể phát hiện được thoát vị đĩa đệm và khối u.

Điều trị

Các biện pháp tự chăm sóc gồm nghỉ ngơi, chườm lạnh, chườm nóng, kéo giãn và thuốc giảm đau .

Vật lý trị liệu.

Tập luyện thường xuyên.

Khi điều trị bảo tồn không làm giảm đau, có thể thử những biện pháp quyết liệt hơn:

Tiêm steroid ngoài màng cứng.

Phẫu thuật cắt bỏ phần đĩa đệm thoát vị gây chèn ép dây thần kinh.

Các biện pháp khác:

Châm cứu

Bấm huyệt

Xoa nắn cột sống

Thôi miên

Phòng bệnh

- Luyện tập thường xuyên.

- Giữ đúng tư thế khi ngồi, đứng hoặc nâng vật nặng

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Xơ cứng rải rác

Xơ cứng rải rác là một bệnh mạn tính tác động đến hệ thần kinh trung ương và có thể gây tàn phế. Đây là một bệnh tự miễn trong đó hệ miễn dịch sản sinh ra kháng thể chống lại lớp vỏ myelin bao bọc các sợi thần kinh trong não và tuỷ sống. Kết quả là gây viêm và tổn thương lớp vỏ này cũng như dây thần kinh mà nó bao quanh.

Dấu hiệu và triệu chứng

- Tê hoặc yếu một hoặc nhiều chi, xảy ra ở một bên hoặc ở nửa dưới cơ thể.

- Mất thị lực hoàn toàn hoặc một phần, thường ở từng mắt một, kèm theo đau khi cử động mắt.

- Nhìn đôi hoặc nhìn mờ

- Cảm giác kiến bò hoặc đau ở nhiều nơi trên cơ thể

- Cảm giác như bị điện giật xảy ra với một số cử động đầu

- Run, mất phối hợp động tác hoặc dáng đi lảo đảo

- Hoa mắt chóng mặt, mệt mỏi

Trong một số trường hợp có thể gặp co cứng hoặc co thắt cơ, nói líu nhíu, liệt, rối loạn chức năng đại tiểu tiện hoặc sinh dục, thay đổi tâm thần, như hay quên hoặc khó tập trung.

Nguyên nhân

Còn chưa rõ nguyên nhân gây ra phản ứng tự miễn trong bệnh xơ cứng rải rác. Các yếu tố di truyền có thể đóng một vai trò nhất định. Một số nhà nghiên cứu tin rằng bệnh có liên quan với một protein giống với myelin được virus đưa vào cơ thể. Một số khác lại cho rằng hệ miễn dịch phản ứng quá mức với myelin dẫn đến khuynh hướng bị bệnh tự miễn ở bệnh nhân xơ cứng rải rác.

Các đợt cấp có thể khởi phát bởi nhiễm virus, như cảm lạnh hoặc cúm, hoặc do thay đổi hệ miễn dịch trong 6 tháng đầu sau khi mang thai.

Xét nghiệm và chẩn đoán

- Hỏi tiền sử bệnh.

- Khám tâm thần kinh, bao gồm thử phản xạ, cơ lực, trương lực cơ, cảm giác đau, nóng, sờ mó và rung. Quan sát dáng đi, tư thế, phối hợp động tác và thăng bằng.

- Đánh giá tư duy, nhận thức và trí nhớ.

- Chụp cộng hưởng từ có thể phát hiện được các tổn thương do mất myelin.

- Chọc dò dịch não tuỷ để xét nghiệm loại trừ nhiễm virus và một số chứng bệnh khác gây ra các triệu chứng tương tự.

- Test gợi điện thế: Đo tín hiệu điện được não truyền đi khi đáp ứng với kích thích.

Điều trị

- Thuốc điều trị thể tái phát:

Các beta interferon.

Glatiramer (Copaxone).

Natalizumab (Tysabri).

Các thuốc khác: mitoxantrone (Novantrone), cyclophosphamide (Cytoxan).

- Thuốc điều trị thể tiến triển:

Corticosteroid.

Thuốc giãn cơ: Baclofen (Lioresal), tizanidine (Zanaflex).

Thuốc để giảm mệt mỏi: gồm các thuốc có đặc tính kích thích như thuốc chống trầm cảm, thuốc chống virus amantadine (Symmetrel) hoặc thuốc điều tị chứng ngủ rũ là modafinil (Provigil).

Các thuốc khác để điều trị co cứng cơ, trầm cảm, đau và rối loạn bàng quang. Thuốc điều trị viêm khớp và thuốc ức chế miễn dịch cho thể làm chậm tiến triển bệnh trong một số trường hợp.

- Các biện pháp điều trị không dùng thuốc như liệu pháp vật lý và nghề nghiệp, tư vấn, lọc huyết tương.

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

U não

U não là một khối hoặc một đám tế bào bất thường trong não. Khối u có thể là nguyên phát hoặc thứ phát, lành tính hoặc ác tính..

Dấu hiệu và triệu chứng

Các dấu hiệu và triệu chứng thường tuỳ thuộc và kích thước, vị trí và tốc độ phát triển của khối u, bao gồm:

Đau đầu mới xuất hiện hoặc thay đổi kiểu đau

Đau đầu thường xuyên hơn và nặng hơn.

Nôn và buồn nôn không rõ nguyên nhân

Các vấn đề về thị lực, nhìn đôi, giảm thị lực ngoại vi.

Giảm dần cảm giác hoặc cử động ở một tay hoặc một chân

Khó giữ thăng bằng

Nói khó

Nhầm lẫn trong những vấn đề hằng ngày

Thay đổi tính cách hoặc hành vi

Cơn động kinh, nhất là ở người không có tiền sử động kinh

Các vấn đề về thính giác

Rối loạn nội tiết (hormon)

Nguyên nhân

U não tiên phát: bắt nguồn ở não hoặc gần não, như xương sọ, màng não, dây thần kinh sọ não, tuyến yên hoặc tuyến tùng. Phần lớn các khối u não ở trẻ em là tiên phát. Chưa rõ nguyên nhân gây ra u não tiên phát. Có thể di truyền, các yéu tố môi trường, virus hoặc những yếu tố khác đóng vai trò gây bệnh.

U não thứ phát: Là những khối u ung thư bắt nguồn từ những nơi khác của cơ thể và sau đó di căn lên não. Ung thư phổi và vú dễ di căn não nhất. Đôi khi khối u ở não là dấu hiệu đầu tiên của ung thư ở nơi khác trong cơ thể.

Xét nghiệm và chẩn đoán

Các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu có thể rất mơ hồ khiến chẩn đoán gặp khó khăn. Việc chẩn đoán thường bao gồm nhiều bước, bao gồm khám thần kinh đẻ kiểm tra thị lực, thính lực, thăng bằng, phối hợp động tác và phản xạ. Tùy theo kết quả khám, bác sĩ có thể yêu cầu một hoặc nhiều xét nghiệm sau:

Chụp cắt lớp vi tính (CT).

Chụp cộng hưởng từ (MRI).

Chụp mạch máu có thuốc cản quang.

Chụp X quang đầu và sọ.

Các xét nghiệm hình ảnh khác như chụp quang phổ cộng hưởng từ (MRS), chụp cắt lớp phát photon đơn (SPECT) hoặc chụp cắt lớp phát positron (PET) giúp đánh giá hoạt động não thông qua nghiên cứu về chuyển hóa, hóa chất và lưu lượng máu trong não.

Sinh thiết. Đây là xét nghiệm duy nhất có thể đưa ra chẩn đoán chính xác.

Điều trị

Việc điều trị và khả năng sống tùy thuộc vào loại, kích thước và vị trí khối u, cũng như tuổi và thể trạng bệnh nhân. Các biện pháp điều trị chính là:

Phẫu thuật. Khối u được cắt bỏ càng nhiều càng tốt đồng thời giảm thiểu tổn thương cho mô lành xung quanh. Một số khối u có thể cắt bỏ hoàn toàn, một số chỉ có thể cắt bỏ một phần hoặc không thể cắt bỏ được.

Chiếu xạ. Tia xạ có thể phá huỷ tế bào khối u trong não.

Hóa trị liệu. Các thuốc hóa trị liệu dùng đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch có thể giúp tiêu diệt tế bào khối u ác tính.

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Viêm não

Mặc dù thuật ngữ “viêm não” có nghĩa là tình trạng viêm của não, song nó thường được dùng để chỉ viêm não do virus. Bệnh thường có 2 thể là tiên phát và thứ phát. Viêm não tiên phát là nhiễm virus trực tiếp ở não và tuỷ sống. còn trong viêm não thứ phát, nhiễm virus xảy ra đầu tiên ở nơi khác trong cơ thể và sau đó đi lên não.

Dấu hiệu và triệu chứng

Phần lớn người bị viêm não virus chỉ có triệu chứng nhẹ - đau đầu, vật vã hoặc thờ ơ - hoặc không có triệu chứng, và bệnh thường không kéo dài. Những trường hợp nghiêm trọng có thể gây ra ngủ gà, lú lẫn và mất định hướng, co giật, sốt đột ngột, đau đầu nhiều, buồn nôn và nôn, cứng gáy và thóp phồng.

Những triệu chứng cấp tính ở người lớn gồm thay đổi ý thức hoặc rối loạn tâm thần. Ở trẻ nhỏ, dấu hiệu chính là cứng gáy và thóp phồng. Ở trẻ lớn, các triệu chứng chính là đau đầu dữ dội, thay đổi tính cách đột ngột, lú lẫn và sợ ánh sáng.

Nguyên nhân

Những nguyên nhân hay gặp nhất gây viêm não là:

- Virus viêm não Nhật Bản B

- Virus herpes, bao gồm virus herpes simplex virus, virus thuỷ đậu (varicella-zoster virus), virus Epstein-Barr.

- Arboviruses

- Vi khuẩn và ký sinh trùng

Xét nghiệm và chẩn đoán

Chọc dịch não tuỷ: xét nghiệm dịch não tuỷ có thể phát hiện thấy nhiễm trùng hoặc tăng bạch cầu, cũng như phát hiện virus trong dịch não tuỷ bằng xét nghiệm AND.

Điện não đồ: Kết quả ĐNĐ bất thường có thể gợi ý viêm não, nưhng kết quả bình thường không loại trừ được bệnh.

Chụp não: Chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ cho thể cho thấy não bị phù nề. Khi nghi ngờ viêm não, chụp não thườgn được tiến hành trước khi chọc dịch não tuỷ để tìm bằng chứng của tăng áp lực nội sọ.

Sinh thiết não: trong một số ít trường hợp khi xét nghiệm AND, hoặc MRI không chẩn đoán được viêm não do herpes simplex.

Xét nghiệm máu tìm kháng thể hoặc nuôi cấy virus.

Điều trị

- Trường hợp nhẹ: nghỉ ngơi đầy đủ, tăng cường dinh dưỡng, bao gồm uống đủ nước, để hệ miễn dịch đủ sức chống lại nhiễm trùng. Thuốc giảm đau chống viêm để giảm đau đầu và phù nề não. Thuốc chống co giật trong trường hợp có co giật.

- Một số virus, nhất là virus herpes simplex và varicella-zoster đáp ứng tốt với các thuốc chống virus như acyclovir và ganciclovir.

- Liệu pháp interferon cũng đang được thử nghiệm trong điều trị viêm não do virus..

Phòng bệnh

Cách phòng bệnh tốt nhất là tránh những virus gây bệnh. điều này bao gồm phòng ngừa nhiễm herpes sinh dục, tiêm chủng đầy đủ, diệt muỗi và áp dụng các biện pháp bảo vệ để tránh không bị muỗi đốt.

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Viêm màng não

Viêm màng não là tình trạng viêm của màng và dịch não tuỷ bao quanh não và tuỷ sống, thường là do nhiễm trùng.


Dấu hiệu và triệu chứng

Những dấu hiệu và triệu chứng ban đầu rất dễ nhầm vớI cúm, bao gồm:

Sốt cao

Đau đầu nhiều

Nôn và buồn nôn kèm theo đau đầu

Lú lẫn

Co giật hoặc khó đi bộ

Cứng gáy

Chán ăn

Phát ban trên da trong một số trường hợp viêm màng não do virus hoặc do màng não cầu.

Nguyên nhân

- Do vi khuẩn:

Streptococcus pneumoniae (phế cầu).

Neisseria meningitidis (màng não cầu).

Haemophilus influenzae (haemophilus)..

Listeria monocytogenes (listeria).

- Do virus, hay gặp nhất là enteroviruses, sởi, herpes, virus West Nile.

- Viêm màng não mạn tính: hiếm gặp, do những vi sinh vật phát triển chậm xâm nhập vào màng não.

- Viêm màng não do nấm, thường chỉ gặp ở những người bị suy giảm miễn dịch.

- Các nguyên nhân không nhiễm trùng, như dị ứng thuốc, một số dạng ung thư và bệnh viêm như lupus.

Xét nghiệm và chẩn đoán

- Chẩn đoán dựa vào bệnh sử, khám thực thể và một số xét nghiệm, bao gồm:

· Cấy họng: phát hiện và xác định vi khuẩn gây đau họng, đau cổ và đau đầu, nhưng không thể xác định được vi khuẩn trong dịch não tuỷ.

· Xét nghiệm hình ảnh. Chụp X quang và chụp cắt lớp vi tính (CT) có thể giúp phát hiện nhiễm trùng ở các vùng khác hoặc nhiễm trùng gây viêm màng não.

· Chọc dò dịch não tuỷ. Xét nghiệm dịch não tuỷ sẽ giúp chẩn đoán xác định viêm màng não.

· Phân tích phản ứng chuỗi polymerase để phát hiện một số gnuyên nhân của viêm màng não.

Điều trị

- Viêm màng não do vi khuẩn:

+ Kháng sinh đường tĩnh mạch.

+ Thuốc chống phù não, sốc, co giật và mất nước

+ Dẫn lưu hoặc mổ để loại trừ dịch tích tụ trong não và màng não.

- Viêm màng não do virus

+ nghỉ ngơi tạI giường, uống nhiều nước

+ thuốc giảm đau để giảm sốt và ddau nhức

+ thuốc chống virus.

Phòng bệnh

+ Tiêm chủng: hiện có các loạI vaccin sau để phòng viêm màng não:

· Vaccin Haemophilus influenzae týp b (Hib).

· Vaccin phế cầu liên hợp (PCV7).

· Vaccin polysaccharide phế cầu (PPV).

· Vaccin màng não cầu liên hợp (MCV4).

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Động kinh

Động kinh là một rối loạn phá vỡ quá trình truyền tín hiệu điện trong não. Bệnh thường gây ra những cơn co giật và mất ý thức. Tuy nhiên triệu chứng bệnh có thể rất khác nhau.


Dấu hiệu và triệu chứng

Cơn động kinh cục bộ

Cơn động kinh cục bộ đơn giản: không gây mất ý thức. Chúng có thể thay đổi cảm xúc hoặc thay đổi cách nhìn, ngửI, cảm giác, nếm hoặc nghe.

Cơn động kinh cục bộ phức tạp. Những cơn này làm thay đổI ý thức, khiến bệnh nhân bị mất ý thức trong một thờI gian. Cơn động kinh cục bộ phức tạp thường gây ra cái nhìn chằm chằm và những cử động không có mục đích, như bẻ tay, liếm môi, nói lảm nhảm hoặc nuốt khan.

Cơn động kinh toàn thể

Cơn vắng ý thức (động kinh cơn nhỏ), đặc trưng bởi cái nhìn chằm chằm, những cử động khó nhận thấy và mất ý thức thoáng qua.

Cơn động kinh cơ. Thường biểu hiện như những động tác giật cục đột ngột ở cánh tay và chân.

Cơn động kinh mất trương lực, khiến bệnh nhân đột ngột ngã quị

Động kinh cơn lớn, là dạng nặng nhất, đặc trưng bởi mất ý thức, co cứng và co giật toàn thân, đôi khi bệnh nhân cắn phải lưỡi hoặc tiểu tiện không tự chủ.

Nguyên nhân

Nhiều thể động kinh có liên quan đến khuyết tật ở gen điều khiển cách truyền thông tin giữa các tế bào não, nhưng chỉ có một vài thể hiếm gặp là phát sinh từ những khuyết tật gen đặc thù. Mặc dù một số thể bệnh động kinh có tính chất gia đình, song di truyền chỉ đóng một phần vai trò gây bệnh - có lẽ thông qua việc khiến ngườI bệnh mẫn cảm hơn với các yếu tố gây bệnh trong môi trường..

Trong nhiều trường hợp, động kinh có thể bắt nguồn từ một tai nạn, bệnh hoặc chấn thương – như đột quị - khiến não bị tổn thương hoặc thiếu oxi. Trong một số ít trường hợp, động kinh có thể có nguyên nhân là khốI u trong não. Tuy nhiên, khoảng ½ số bệnh nhân không xác định được nguyên nhân gây bệnh.

Xét nghiệm và chẩn đoán

- Mô tả chi tiết cơn động kinh. Do người bệnh có thể không nhớ được những gì xảy ra, nên thầy thuốc sẽ cần nghe lời kể của những người đã chứng kiến cơn động kinh.

- Khám thần kinh kiểm tra phản xạ, trương lực cơ, cơ lực, cảm giác, dáng đi, tư thế, phốI hợp động tác và thăng bằng, cũng như một số câu hỏi để kiểm tra khả năng tư duy, nhận thức và trí nhớ.

- Xét nghiệm máu để loại trừ những nguyên nhân có thể gây cơn co giật như nhiễm trùng, ngộ độc chì, thiếu máu hoặc tiểu đường.

- Các xét nghiệm hình ảnh để phát hiện bất thường trong não: điện não đồ, chụp CT, chụp cộng hưởng từ (MRI), chụp cắt lớp phát positron (PET), chụp cắt lớp vi tính phát photon đơn (SPECT).

Điều trị

- Thuốc chống động kinh.

- Phẫu thuật cắt bỏ vùng não gây ra cơn động kinh.

- Kích thích dây phế vị

- Chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt giàu chất béo, protein và ít carbonhydrat để giảm sản sinh xêtôn trong cơ thể.


theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Bệnh Parkinson

Bệnh Parkinson thường tiến triển nặng dần, bắt đầu bằng dấu hiệu run khó nhận thấy ở một bên bàn tay. Tuy run là dấu hiệu nổi bật nhất, song bệnh cũng là nguyên nhân phổ biến gây cử động chậm và cứng nhắc.

Triệu chứng

  • Run. Thường bắt đầu ở một bên bàn tay. Tuy nhiên nhiều bệnh nhân không bị run rõ rệt.
  • Cử động chậm chạp. Bệnh làm giảm khả năng bắt đầu các cử động tự ý, dần dần khiến cho ngay cả những cử động đơn giản cũng trở nên khó khăn và mất nhiều thời gian.
  • Cứng cơ. Thường xảy ra ở chi và ở cổ. Cứng cơ làm giảm tầm vận động và gây đau.
  • Biến dạng và mất thăng bằng. Trong giai đoạn muộn, bệnh nhân có thể bị gù vẹo và không giữ được thăng bằng.
  • Mất các động tác tự động như chớp mắt, cười và vung tay khi đi. Bệnh nhân có nét mặt cứng đờ, mắt không chớp và mất khả năng diễn tả bằng điệu bộ.
  • Thay đổi giọng nói. Giọng nói trở nên yếu ớt, nhanh hoặc đơn sắc, nói líu nhíu, lặp lại từ hoặc ngập ngừng trước khi nói.
  • Sa sút trí tuệ. Trong giai đoạn muộn, một số bệnh nhân bị giảm sút trí nhớ và tâm thần.

Nguyên nhân

Các triệu chứng của bệnh Parkinson là hậu quả của thiếu hụt một chất dẫn truyền thần kinh là dopamin trong não. Điều này xảy ra khi các tế bào não đặc hiệu sản sinh dopamin bị chết hoặc suy giảm chức năng. Chưa rõ nguyên nhân của hiện tượng này. Người ta cho rằng các đột biến di truyền hoặc độc chất trong môi trường đóng vai trò trong căn bệnh này.

Xét nghiệm và chẩn đoán

  • Do nhiều nguyên nhân có thể gây ra các triệu chứng giống bệnh Parkinson, nên bệnh rất khó chẩn đoán, nhất là trong giai đoạn sớm. Hiện chưa có xét nghiệm nào chẩn đoán xác định căn bệnh này

Chẩn đoán bệnh thường dựa vào tiền sử và khám thần kinh, bao gồm đánh giá khả năng đi bộ, phối hợp động tác cũng như thực hiện một số nhiệm vụ đơn giản bằng tay. Chẩn đoán sơ bộ thường được đặt ra nếu bệnh nhân có:

  • Ít nhất 2 đến 3 triệu chứng chính là run, chậm cử động và cứng cơ
  • Triệu chứng chỉ khởi phát ở một bên cơ thể
  • Run thấy rõ hơn khi nghỉ ngơi
  • Đáp ứng tốt với thuốc levodopa

Điều trị

Điều trị nội khoa

Levodopa. Hiện là thuốc điều trị hiệu quả nhất. Thuốc được chuyển hóa thành dopamin trong não. Tuy nhiên khi bệnh tiến triển, hiệu quả của levodopa có thể bị giảm đi. Tác dụng phụ của levodopa gồm lú lẫn, hoang tưởng, ảo giác và rối loạn vận động..

  • Chất chủ vận dopamin, gồm pramipexole (Mirapex), ropinirole (Requip), apomorphine (Apokyn). Những thuốc này bắt chước tác dụng của dopamin trong não. Tuy gần như không có hiệu quả điều trị các triệu chứng của bệnh, song thuốc làm giảm phần nào hiệu quả thất thường của levodopa.
  • Các chất ức chế MAO B. Nhóm thuốc này gồm selegiline (Eldepryl) và rasagiline (Azilect). Thuốc ức chế hoạt động của enzym monoamine oxidase B (MAO B), nhờ đó ngăn ngừa giáng hóa dopamin tạo thành từ levodopa. Tác dụng phụ hiếm gặp nhưng có thể gồm tương tác nặng với các thuốc khác như thuốc điều trị trầm cảm và thuốc ngủ.
  • Các chất ức chế catechol O-methyltransferase (COMT), gồm tolcapone (Tasmar) và Entacapone (Comtan). Những thuốc này ức chế enzym giáng hóa levodopa, nhờ đó kéo dài tác dụng của levodopa. Thuốc có thể gây tổn thương gan và suy gan.
  • Các chất chống tiết acetylcholin, như trihexyphenidyl và benztropine (Cogentin). Tuy nhiên, lợi ích khiếm tốn của thuốc có thể không tương xứng với những tác dụng phụ như lú lẫn và hoang tưởng, nhất là ở bệnh nhân trên 70 tuổi. Những tác dụng phụ khác gồm khô miệng, buồn nôn, bí tiểu và táo bón.
  • Thuốc chống virus. Amantadine (Symmetrel) có thể làm giảm nhất thời bệnh Parkinson nhẹ giai đoạn đầu. Thuốc cũng có thể được kết hợp với liệu pháp carbidopa-levodopa cho bệnh nhân giai đoạn muộn, nhất là khi bị rối loạn vận động do carbidopa-levodopa. Tác dụng phụ gồm sưng nề cổ chân và nốt xuất huyết trên da.

Phẫu thuật

Kích thích não sâu là thủ thật phổ biến nhất để điều trị bệnh. Thủ thuật này bao gồm cấy một điện cực vào sâu trong vùng não chi phối vận động. Điện cực được nối với một thiết bị cấy ngoài da sẽ điều chỉnh lượng kích thích phát ra.

Thủ thuật thường được chỉ định cho bệnh nhân bị bệnh giai đoạn muộn có đáp ứng không ổn định với thuốc (levodopa). Kích thích não sâu không có hiệu quả với bệnh nhân không đáp ứng với carbidopa-levodopa.

theo http://www.cimsi.org.vn

Read On 0 nhận xét

Bệnh tự kỷ

Tự kỷ là một rối loạn ở não đi kèm với một loạt những vấn đề về phát triển, chủ yếu là về giao tiếp và tương tác với xã hội. Bệnh hay gặp ở các bé trai gấp 4 lần các bé gái.

Dấu hiệu và triệu chứng

Nhìn chung, trẻ tự kỷ thường có những vấn đề trong 3 lĩnh vực quan trọng của quá trình phát triển là kỹ năng giao tiếp, ngôn ngữ và hành vi. Những trẻ bị bệnh nặng có thể mất hoàn toàn khả năng giao tiếp hoặc tương tác với người khác.

Trong vài tháng hoặc vài năm đầu sau khi ra đời, trẻ có thể hoàn toàn bình thường, nhưng sau đó trẻ dần trở nên kém đáp ứng với người khác. Trẻ cũng khó chia sẻ trải nghiệm với người khác, ví dụ khi được nghe người khác đọc truyện, trẻ không chỉ ra được bức tranh trong câu chuyện đó. Khi lớn lên, một số trẻ có thể hòa nhập hơn với người xung quanh và có thể có cuộc sống bình thường hoặc gần bình thường. Tuy nhiên một số trẻ khác tiếp tục bị suy giảm khả năng ngôn ngữ và giao tiếp, và có những rối loạn hành vi trầm trọng hơn.

Đa số trẻ tự kỷ chậm học được các kiến thức và kỹ năng mới. Tuy nhiên một số trẻ có trí tuệ bình thường hoặc khá thông minh. Một số nhỏ trẻ còn được xem là những “thần đồng” và có những kỹ năng đặc biệt trong một lĩnh vực nhất định, như nghệ thuật hoặc toán học.

Nguyên nhân

Bệnh tự kỷ không có một nguyên nhân duy nhất. Bệnh có vẻ liên quan đến những bất thường ở nhiều vùng não, và các nhà khoa học đã xác định được một số khuyết tật gen có liên quan với bệnh. Gia đình có một trẻ bị tự kỷ có 1/20 khả năng có đứa con thứ hai cũng bị bệnh.

Trẻ có triệu chứng tự kỷ cũng có nguy cơ cao bị các bệnh sau:

Hội chứng X, gây chậm phát triển tâm thần

Xơ cứng dạng củ, gây ra những khối u trong não

Hội chứng Tourette

Động kinh

Xét nghiệm và chẩn đoán

Vì bệnh có mức độ nặng và biểu hiện rất khác nhau, nên có thể rất khó chẩn đoán. Không có xét nghiệm đặc hiệu nào để phát hiện ra bệnh. Khám xét bao gồm quan sát trẻ và hỏi về sự phát triển và thay đổi trong kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ngôn ngữ và hành vi của trẻ qua thời gian. Trẻ có thể được làm một số trắc nghiệm về nói chuyện, ngôn ngữ và các vấn đề tâm lý.

Mặc dù dấu hiệu bệnh thường biểu hiện khi trẻ được 18 tháng tuổi, nhưng chẩn đoán có khi phải đợi đến khi trẻ được 2 hoặc 3 tuổi, khi biểu hiện chậm phát triển ngôn ngữ đã trở nên rõ ràng. Chẩn đoán sớm là rất quan trọng vì can thiệp sớm - trước 3 tuổi - thường mang lại khả năng phục hồi tốt nhất.

Điều trị

Chưa có cách chữa khỏi bệnh tự kỷ, và không có biện pháp nào phù hợp cho tất cả. Các lựa chọn điều trị có thể gồm:

· Liệu pháp hành vi và giao tiếp nhằm giải quyết những khó khăn về giao tiếp, ngôn ngữ và hành vi của trẻ.

· Thuốc: Thuốc không cải thiện được các dấu hiệu chủ yếu tự kỷ, nhưng có thể giúp kiểm soát các triệu chứng.

· Các liệu pháp hỗ trợ, như nghệ thuật, âm nhạc, chế độ ăn đặc biệt, bổ sung vitamin và muối khoáng v.v…

Trẻ thường đáp ứng tốt với các chương trình giáo dục được cấu trúc chặt chẽ, có sự tham gia của một nhóm các chuyên gia và bao gồm nhiều hoạt động khác nhau để cải thiện kỹ năng ứng xử, giao tiếp và hành vi.

theo http://www.cimsi.org.vn
Read On 0 nhận xét

Bệnh Alzheimer

Bệnh Alzheimer là nguyên nhân hay gặp nhất gây sa sút trí tuệ. Sa sút trí tuệ xảy ra ở người bệnh Alzheimer do tổ chức não bình thường bị thoái hóa, dẫn đến giảm sút nghiêm trọng trí nhớ và năng lực tâm thần.

Triệu chứng

  • Quên dai dẳng và tăng dần: Nhất là quên những sự kiện mới xảy ra hoặc những chỉ dẫn đơn giản, tình trạng quên diễn biến dai dẳng và nặng dần.
  • Khó tư duy trừu tượng.
  • Khó tìm từ thích hợp để thể hiện ý nghĩ hoặc trò chuyện, cuối cùng khả năng đọc và viết cũng bị ảnh hưởng.
  • Rối loạn định hướng, bệnh nhân bị mất cảm giác về không gian và thời gian.
  • Mất khả năng phán đoán, khó thực hiện những việc cần lập kế hoạch, đưa ra quyết định và phán đoán.
  • Khó thực hiện những công việc quen thuộc hàng ngày, thậm chí có thể quên cách thực hiện những việc đơn giản nhất.
  • Thay đổi tính cách.

Nguyên nhân

Nguyên nhân gây bệnh Alzheimer còn chưa được hiểu rõ. Một số giả thuyết hiện nay về nguyên nhân gây bệnh gồm:

  • Vai trò của mảng bám: Các mảng bám trong não được hình thành từ một protein vốn dĩ vô hại là beta-amyloid. Dạng đột biến protein này có thể là thủ phạm gây chết tế bào thần kinh trong bệnh Alzheimer.
  • Vai trò của đám rối: Ở bệnh nhân Alzheimer's, các chuỗi protein tau bị biến đổi khiến chúng xoắn lại, có thể gây tổn thương nghiêm trọng và làm chết các tế bào thần kinh.
  • Đáp ứng viêm: tình trạng viêm được thấy trong não của một số bệnh nhân Alzheimer, song chưa rõ viêm có liên quan như thế nào với quá trình bệnh.

Xét nghiệm và chẩn đoán

Hiện chưa có xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán bệnh Alzheimer. Quá trình chẩn đoán bệnh thường được đưa ra sau khi loại trừ những chứng bệnh khác có thể gây giảm trí nhớ.

Thuốc và điều trị

Hiện chưa có cách nào chữa khỏi bệnh Alzheimer. Một số thuốc có tác dụng cải thiện những triệu chứng thường đi kèm với bệnh như mất ngủ, lo âu, hồi hộp và trầm cảm. Chỉ có hai loại thuốc được chứng minh là có tác dụng làm chậm sự suy giảm nhận thức trong bệnh Alzheimer.

Chất ức chế cholinesterase: bao gồm các thuốc donepezil (Aricept), rivastigmine (Exelon) và galantamine (Reminyl), có tác dụng cải thiện nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh trong não. Donepezil đã được phê chuẩn để điều trị bệnh Alzheimer nhẹ, vừa và nặng. Thuốc cũng có tác dụng làm chậm khởi phát bệnh khoảng 1 năm ở người bị suy giảm nhận thức nhẹ.

Các chất ức chế cholinesterase không có hiệu quả ở khoảng một nửa số bệnh nhân. Thuốc có thể gây những tác dụng phụ như tiêu chảy, buồn nôn và nôn.

Memantine (Namenda)

Thuốc đầu tiên được phê chuẩn để điều trị bệnh Alzheimer giai đoạn vừa và nặng là memantine (Namenda), có tác dụng bảo vệ tế bào não khỏi tổn thương do chất dẫn truyền thần kinh glutamat. Tác dụng phụ hay gặp nhất của memantine là chóng mặt, thuốc cũng làm tăng hồi hộp và hoang tưởng ở một số bệnh nhân.

theo http://www.cimsi.org.vn

Read On 0 nhận xét
 

MedicineNet Daily News

Medscape Medical News Headlines

WebMD Health


About me | Author Contact | Powered By Blogspot | © Copyright  2008