Bệnh Tiểu Đường

Bài viết tương đối dài, mời bạn click vào "tiêu đề" hoặc "đọc thêm..." để xem toàn bộ bài viết

Nguyên lý :
Bệnh tiểu đường đã được các y sĩ Ấn Độ tả từ trên 2000 năm và được biết tới từ thời cổ Ai Cập . Khi đó , các y sĩ thấy kiến bu vào nước tiểu của nhiều người bệnh vì có chất ngọt nên họ gọi là nước tiểu mật ong .

Bình thường , tinh bột( Carbohydrates )trong thực phẩm tiêu thụ vào tới ruột sẽ chuyển thành đường glucose rồi đưa sang máu .

Insulin , một kích thích tố do tụy tạng tiết ra , điều hòa giữ glucose ở mức trung bình, số còn lại thì được đưa vào tồn trữ ở cơ thịt , gan để dùng dần.Khi lý do nào đó mà cơ thể không có đủ insulin hay insulin không hiệu lực , glucose không vào tế bào được , sẽ tràn ngập trong máu và một số không dùng tới sẽ được tiểu ra ngòai .

Cho nên tiểu đường là khó khăn trong việc chuyển hóa của chất Carbohydrates thành năng lượng cho các chức năng của cơ thể.

Trung bình đường trong máu thay đổi từ 50 tới 115 mg/100 phân khối , cao khi vượt qúa 140 mg/100cc .Đường lên cao sau khi ăn và càng xa bữa ăn thì đường càng thấp xuống , thí dụ như buổi sáng trước giờ ăn điểm tâm .Nếu đo nhiều lần mỗi buổi sáng mà đều cao thì là mắc bệnh .

Phân lọai:
Y học chia bệnh tiểu đường ra làm 2 lọai: lọai I còn được gọi là tiểu đường phụ thuộc Insulin và loại II hoặc tiểu đường không phụ thuộc insulin .

Bệnh tiểu đường lọai I có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào nhưng đa số ở tuổi thanh thiếu niên hoặc trước 30 tuổi . Tỷ lệ bệnh 10 % .

Trong lọai I , tế bào sản xuất ra insulin của tụy tạng ngưng hoặc chỉ tiết ra rất ít kích thích tố này.Muốn giữ đường trong máu ở mức trung bình thì phải chích thêm insulin cho nên bệnh được gọi là tiểu đường phụ thuộc vào insulin .

Mặc dù đa số trẻ em bị lọai I , nhưng một số em cũng có thể ở loại II và có thể chữa bằng chế độ dinh dưỡng , vận động cơ thể và giảm cân nếu các em mập . Xin nhắc lại là béo mập không là nguy cơ gây ra tiểu đường loại I .

Loại này được khoa học giải thích là do ảnh hưởng của gene di truyền với sự hủy hoại các tế bào tiết ra insulin của tụy tạng . Ngoài ra , vài loại siêu vi trùng như trong các bệnh ban đào ( Rubella ), quai bị ( Mump ) , Covackie B cũng là nguy cơ gây bệnh .

Loại II :
Thường phát hiện ở lớp người trưởng thành trên 30 tuổi 90 % tiểu đường thuộc loại 2 .

Bệnh thường thấy ở người qúa mập và thường xảy ra khi đột nhiên lên ký .Người bệnh không tạo ra đủ insulin cho nhu cầu hoặc do insulin có nhưng không hữu hiệu.Cũng nên lưu ý là, không phải những ai bị tiểu đường đều mập,nhưng mà sự mập có khả năng đưa tới tiểu đường . Di truyền cũng có trách nhiệm gây ra loại II này vì 90 % cặp song sinh đều bị bệnh .

Vì không phụ thuộc vào insulin nên loại II có thể kiểm soát được bằng tiết chế ăn uống và vận động cơ thể .

Nói chung thì tiểu đường thường xẩy ra cho nhiều người trong gia đình, mà bằng cách nào thì chưa có giaỉ thích. Cho nên nếu cha mẹ anh chị em bị tiểu đường thì mình cũng có nguy cơ bị bệnh .

Ngoài ra, bệnh tiểu đường còn thấy ở người nghiện rượu mà tụy tạng bị viêm kinh niên ; trong các bệnh của tuyến nội tiết như hội chứng Cushing , bệnh to cực ( Acromegaly ) bệnh ngoài da ( Acanthosis nigricans ) với vết màu đậm ờ cổ, nách, háng .

Triệu chứng:
Triệu chứng chính của bệnh tiểu đường gồm có: Uống nước nhiều , đi tiểu nhiều lần nhiều nước và ăn nhiều .

Khi cơ thể không xử dụng được đường , đường sẽ tích tụ trong máu . Trong tình trạng bình thường , thận giữ đường lại chứ không thải ra ngoài ,nhưng khi đường lên qúa cao thì thận giúp hạ thấp bằng cách đẩy bớt ra ngoài một ít . Đường máu cao sẽ hút nước của tế bào . Nước theo đường ra ngoài , làm ta đi tiểu nhiều ; mà tiểu nhiều thì khát nước nên phải uống nước nhiều .

Ở loại I , người bệnh hay xuống cân vì cơ thể phải chuyển hóa mỡ và đạm dự trữ trong tế bào ra năng lượng . Ở loại II , thì người bệnh lại lên ký vì ăn nhiều .

Ngoài ra, bệnh nhân hay mệt mỏi , buồn nôn , mắt mờ , dễ nhiễm độc đường tiểu tiện , da và miệng .Nữ giới hay bị bệnh nấm ở cơ quan sinh dục .

Cao đường máu lâu năm sẽ gây nhiều tổn thương cho thận , mắt ,thần kinh , tim mạch . Vì đường trong máu cao nên cơ thể lấy nước từ tế bào qua để làm loãng đường , thận phải làm việc nhiều hơn để bài tiết nước và đường thành ra suy yếu .

Khi mạch máu lớn bị ảnh hưởng thì tim não bị tổn thương có thể gây ra nhồi máu cơ tim , tai biến mạch máu não.

Máu kém lưu thong làm vết thương lâu lành , đôi khi đưa tới khô héo ngón chân , phải cắt bỏ.
Đường cao cũng có ảnh hưởng tới dây thần kinh ngoaị vi, nhất là ở dưới bàn chân khiến bệnh nhân cảm thấy tê hoặc châm nhói như kiến đốt . Bệnh tiểu đường gây ra nhiều biến chứng trầm trọng cho cơ thể

Điều trị tiểu đường:
Về điều trị tùy theo loại bệnh ,nhưng căn bản vẫn là làm sao giữ mức đường trong máu càng gần với bình thường càng tốt , bằng thuốc viên hoặc bằng insulin chích .

Dù thuộc loại nào , thuốc cũng cần được dùng lâu dài nhất là đối với bệnh phụ thuộc insulin .Bệnh nhân cần được bác sỹ đều đặn theo dõi phân lượng, tác dụng phụ của thuốc cũng như tiến triển của bệnh .

Vấn đề cẩn thận ăn uống rất quan trọng đối với bệnh nhân béo mập , vừa để giữ mức đường bình thường , vừa giảm ký .

Vận động cơ thể là điều cần làm vì sự vận động đốt bớt đường và góp phần giảm ký ở bệnh nhân mập.

Bệnh nhân cũng cần hiểu rõ các chi tiết về bệnh tật , về cách dùng thuốc , về sự ăn uống , tập luyện cơ thể .

Ngoài ra , y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian mình cũng dùng nhiều loại cây non để kiểm sóat đường huyết và dường như có vài hiệu quả. Chẳng hạn cây sinh địa, cải soong, lá chua me, lộc nhung …..

Sống thích nghi với bệnh :
Tiểu đường là bệnh kinh niên. Tùy theo tuổi bị bệnh và tùy theo nặng nhẹ, tiểu đường sẽ đưa đến một số thay đổi trong nếp sống mà người bệnh phải thích nghi. Bệnh tiểu đường đã được xếp vào loại tật nguyền trong Americans with disabilities Act, cần được giúp đỡ. Như vậy không có nghĩa là người bệnh không sống bình thường được .

Nhiều lực sỹ thể thao, nhiều chuyên gia bị tiểu đường mà vẫn có đời sống như mọi người, miễn là họ kiểm sóat được đường máu, đừng để biến chứng xẩy ra .

Sau đây là một số điều cần làm:
1-Giữ mức độ đường trong máu gần trung bình qua cân bằng dinh dưỡng, năng lượng tiêu thụ , vận động cơ thể và dùng thuốc như bác sĩ dặn.

2-Đo đường ở máu mỗi ngày theo lịch trình nhất là trước khi đi ngủ, vì ban đêm đường có thể xuống thấp và gây ra biến chứng trầm trọng như kinhphong , hôn mê. Nếu mức đường đo trước khi ngủ thấp hay gần bình thường thì nên ăn một chút. Có thể đo đường bằng que giấy có thuốc thử hoặc máy đo tự động.

3-Nếu phải dùng insulin thì nên mang sẵn một ống chích với insulin đang dùng,phòng khi cần đến bất thình lình.

4-Cẩn thận trong việc ăn uống,bớt chất béo bão hòa,giới hạn muối,nhiều chất xơ. Chia thực phẩm trong ngày ra nhiều bữa ăn nhỏ để tránh đường xuống thấp,nhất là khi đang chữa bằng insulin.

5-Vận động cơ thể hằng ngày để điều hòa đường trong máu, làm gỉam Cholesterol, giảm nguy cơ bệnh tim và làm người bệnh cảm thấy khỏe hơn.

6-Giới hạn dùng rượu vì rượu làm giảm đường thóat ra từ gan, đường trong máu xuống thấp,rất nguy hiểm. Khi ở trong tình trạng này, cần được cho dùng ngay một chút thực phẩm có đường như một ly nước trái cây, một cục kẹo.

7-Luôn luôn mang theo một món ăn có đường như một cục kẹo, một ly nước ngọt,miếng trái cây để đề phòng khi đường xuống thấp qúa thì dùng.

8-Thuộc lòng các dấu hiệu của chứng đường xuống thấp như tự nhiên thấy mệt mỏi, nói ngược ngạo khó khăn, cử động chân tay luýnh quýnh, mất định hướng, gắt gỏng, âu lo, đổ mồ hôi, nhức đầu, đói bụng, muốn xỉu. Chia xẻ hiểu biết này với than nhân và người làm cùng phòng, cùng sở vì có khi mình cần họ cấp cứu.

9-Mang một bảng tên có ghi mình bị tiểu đường ,loại insulin hay thuốc viên đang dùng để khi cần mà mình bất tỉnh thì được cấp cứu.

10-Tránh những căng thẳng stress vì căng thẳng có thể tăng hoặc giảm qúa độ đường trong máu.

11-Chủ động trong nếp sống của mình trong việc duy trì trung bình mức độ đường qua thực phẩm, ăn uống, vận động.

12-Sinh họat bình thường, nhưng cẩn thận một chút để tránh biến chứng làm bệnh trầm trọng hơn.

13-Giữ chân khô, sạch, ấm. Cẩn thận khi cắt móng chân tránh cắt (cut) vào da. Đi giầy cũ tốt hơn giầy mới vì cứng dễ cắt vào da.

14-Cẩn thận khi lái xe, nhất là đang chích insulin, máu xuống bất thường, gây tai nạn.

15-Khi dùng các thuống không cần toa, lựa thứ không có thêm đường và rượu (như thuốc ho, sinh tố)
16-Hợp tác và nghe theo chỉ dẫn của bác sĩ. Một số người nam sẽ bị loạn cương dương, giảm khả năng làm tình nhưng ngày nay đã có nhiều phương thức để cứu vãn vấn nạn này.

Nhiều người thiệt mạng vì biến chứng tim mạch mà thong thường nhất là cơn suy tim (heart attact) hoặc chết vì suy thận.

Tự đo đường máu:
Chìa khóa thành công trong điều trị tiểu đường là giữ glucose máu bình thường.Do đó ta phải biết tự đo đường máu nhất là khi đường máu lên xuống bất thường.Với tự đo này,ta có thể giảm insulin,thuốc viên,điều chỉnh ăn uống cũng như vận động cơ thể.

Trong qúa khứ, ta thử đường trong nước tiểu. Ngày nay thử đường máu chính xác hơn. Thường thường ta cần đo đường máu trước khi ăn và khi đi ngủ, là lúc mà đường ở mức bình thường. Xin ghi kết qủa trên giấy tờ để theo dõi cũng như để bác sĩ thay đổi thuốc men, dinh dưỡng.
Hỏi bác sĩ về loại máy dùng cũng như khi nào đo.

Hiểu biết căn bản về insulin :
Insulin là kích thích tố do tụy tạng tiết ra mà nhiệm vụ là để điều hòa, kỉêm soát mức độ đường trong máu bằng cách đưa đường vào tế bào, thay vì chạy lông nhông trong huyết quản. Tất cả bệnh nhân loại I (type 1) và một số bệnh nhân loaị II (type 2) cần dùng insulin để giữ đường trong máu ở mức độ trung bình.

Insulin được 2 bác sĩ Frederick G.Bangting và Charles H.Best khám phá ra năm 1922. Trước đó nhiều khoa học gia cũng đã nghiên cứu và thấy là trong tụy tạng có một chất cần thiết để duy trì bình thường đường trong máu.

Xin ôn lại về tuyến tụy tạng:
-Tuyến lớn hơn khỏang bàn tay của ta và nằm sau bao tử. Tuyến có 2 nhiệm vụ quan trọng chính yếu: giữ vai trò quan trọng trong sự tiêu hóa thực phẩm bằng các diêu tố do tuyến tiết ra.

- Kiểm soát năng lượng mà cơ thể cân dùng bằng cách điều hòa đường glucose trong máu. Tuyến tiết ra kích thích tố insulin, glucagons và somastin.

Insulin được tiết ra khi Glucose máu lên cao,chẳng hạn sau khi ăn. Các tế bào được insulin kích thích, hấp thụ Glucose để chuyển ra năng lượng cho sinh họat cơ thể.

Glucose dư sẽ được insulin đưa vào dự trữ ở gan dưới hình thức glycogen. Khi cơ thể cần glucose thì glucagons biến đổi glycogen ra glucose. Còn Somato statin dường như có nhiệm vụ điều hòa sự sản xuất insulin và glucagon.

Insulin giúp cơ thể chuyển hóa đường không dùng đến vào tích trữ trong gan và bắp thịt.Khi có vấn đề khó khăn với insulin như là thiếu, không có, không công hiệu, thì đường sẽ tràn đầy trong máu, một số sẽ được bài tiết ra ngoài theo nước tiểu.

Insulin nguồn gốc động vật như từ tụy tạng của bò và heo. Còn human insulin thì thực ra không phải từ tụy tạng con người mà được chế hóa từ vi khuẩn qua kỹ thuật biến chế DNA.

Có nhiều loại insulin, tùy theo tác dụng mau hay chậm, kéo dài hay tức thì. Ba loại chính thường dùng là:

1-Tác dụng mau: Insulin này có tác dụng rất mau ( immediate ) ,chỉ 15 phút sau khi chích và công hiệu kéo dài khỏang từ 3 đến 4 giờ. Thí dụ Humalog .

2- Loại tác dụng ngắn hạn ( Short Acting ): Thuốc công hiệu độ nửa giờ sau khi chích, kéo dài từ 6-8 giờ, tối đa là giữa 2 và 4 giờ.

3- Tác dụng trung bình ( Intermediate-Acting ): như NPH hay Lent insulin , có công hiệu từ 1 đến 3 giờ sau khi chích và kéo dài tới 24 giờ .

4- Tác dụng dài hạn ( Long-Acting ): như Ultralente sau khi chích phải chờ đợi tới 4-6 giờ mới bắt đầu có tác dụng. Nhưng công hiệu kéo dài từ 20 tới 24 giờ. Công hiệu tối đa là lúc 6-8 giờ sau khi chích.

Cách dùng insulin:
Vì cơ thể không cung cấp đủ insulin nên người bệnh phải chích thêm insulin. Trước khi dùng, cần đo nhiều lần và ghi mức độ đường trong máu để bác sĩ biết mà ra toa số lượng cần thiết.

Thường thì bệnh cần chích ít nhất 2 lần 1 ngày, có người cần đến 3, 4 lần chích mới đủ để kiểm sóat đường trong máu.

Khi dùng insulin nhiều qúa thì đường sẽ xuống qúa thấp,người bệnh bị phản ứng insulin triệu chúng là: nhức đầu, tim đập mạnh, mệt mỏi, mất định hướng, đổ mồ hôi, buồn nôn, đói bụng, đôi khi bất tỉnh, làm kinh, hôn mê. Bệnh nhân sẽ được chuyên viên y tế hướng dẫn về cách thức sử dụng và kỹ thuật chích. Sau đây là ít điều cần nhớ:

1--Insulin có nhiều loại khác nhau với công dụng khác nhau. Không nên thay đổi loại mà không tham khảo ý kiến bác sĩ trước.

2--Insulin giữ trong tủ lạnh sẽ được dùng lâu hơn đồng thời cũng tránh được nhiễm trùng. Khi đã dùng dở thì co1 thể để ngoài tủ lạnh được một tháng, nhưng tránh chỗ nóng và có ánh nắng mặt trời. Không bao giờ cất insulin trong ngăn đá hoặc làm ấm trong Micrcowave.

3-- Kiểm sóat nhãn hiệu trên lọ insulin cho đúng loại . Vứt bỏ insulin short-acting nếu nom thấy đục hoặc đặc sệt. insulin khác bình thường nom đều như sữa,không lợn cợn đóng hột. Trước khi hút thuốc vào ống chích, lăn chai thuốc trong lòng bàn tay cho dung dịch hòa đều, ngoại trừ với insulin Short-Acting. Đừng lắc lọ thuốc qúa mạnh vì bọt khiến lượng thuốc hút vào không chính xác.

4—Trước khi lấy thuốc, keó ống chích lên để không khí vào ống chích bằng với phân lượng insulin, cắm kim vào lọ, bơm không khí vào rồi hút thuốc.

5—Mua ống chích tùy theo loại insulin và phân lượng chích. Nên dùng ống chích của một nhà sản xuất để số lượng insulin mỗi lần rút ra được đồng đều. Mặc dù không được khuyến khích,nhưng khi dùng lại ống chích cũ thì nên chùi kim cho sạch với rượu cồn hoặc đun trong nước sôi độ 5 phút. Cũng không nên dùng đi dùng lại nhiều lần qúa.

6—Nơi chích thuốc thường là trên bụng (hiệu lực mau nhất) mông, mặt trước của đùi (hiệu lực chậm nhất) mặt sau của tay (hiệu lực trung bình). Thay đổi chỗ chích để tránh tổn thương và sẹo dầy cho tế bào mỡ ở vùng đó, cản trở hấp thụ thuốc.

7—Trước khi chích,lau sạch da bằng cồn (Alcohol). Với 2 ngón tay,kẹp nổi lên một nếp da.Kim chích nghiêng 90 độ,chích vào nếp da. Trước khi bơm thuốc,kéo nhích piston coi có máu không. Nếu không có máu thì bơm thuốcvào,còn khi có máu thì chích lại. Sau khi chích,thoa nhẹ trên da chỗ chích,tránh chích nơi da bị nhiễm độc hoặc bị dị ứng nổi ban đỏ.

8—insulin có thể gây dị ứng với nhiều người bệnh hoặc nếu ai dị ứng với thịt bò, thịt heo thì không được dùng insulin từ súc vật này.

9—Vì là dược phẩm, nên insulin có tương tác với một số dược phẩm khác, vì thế cần cho bác sĩ rõ là mình đang dùng thuốc nào, để làm gì.

Kết luận:
Bệnh tiểu đường là bệnh có thể kiểm sóat được. Điều quan trọng là người bệnh cần sử dụng thuốc theo lời dặn của bác sĩ cũng như duy trì sự ăn uống, cân bằng, đời sống lành mạnh.

Bác Sỹ Nguyễn Ý Đức.
Texas--USA.

About this entry

Đăng nhận xét

 

MedicineNet Daily News

Medscape Medical News Headlines

WebMD Health


About me | Author Contact | Powered By Blogspot | © Copyright  2008