Ung thư gan nguyên phát - điều trị và phòng ngừa

Ung thư gan nguyên phát là một bệnh thường gặp ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Tỷ lệ mắc ung thư gan ở nước ta rất cao, đứng hàng thứ 4 sau ung thư phổi, ung thư dạ dày và ung thư vòm. Hầu hết bệnh nhân ung thư gan sống thêm chỉ khoảng từ 6 tháng đến 1 nǎm tính từ khi phát bệnh, đa số bệnh nhân đều đến với thầy thuốc ở giai đoạn muộn...

Ngày nay có nhiều phương pháp chẩn đoán ung thư gan như: siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, định lượng AFP, sinh thiết gan. Về điều trị cũng có nhiều tiến bộ, đặc biệt khi bệnh nhân được phát hiện sớm và lựa chọn biện pháp điều trị thích hợp, khi đó thời gian sống thêm sẽ được kéo dài đáng kể.

1. Triệu chứng

Ở thời kỳ đầu đa số bệnh nhân hoàn toàn không có triệu chứng gì, thường bệnh được phát hiện qua siêu âm định kỳ hoặc xét nghiệm AFP tăng cao.

Khi khối u lớn dần, có thể thấy một hay nhiều triệu chứng dưới đây: mệt mỏi, sụt cân, gầy sút nhanh; đau âm ỉ, cảm giác tức nặng khó chịu vùng hạ sườn phải; chán ăn, ăn chậm tiêu; sốt; vàng da; cổ chướng; có thể bệnh nhân tự sờ thấy khối u ở vùng hạ sườn phải...

Khi thăm khám, bác sỹ chuyên khoa sẽ xác định bản chất khối u cùng với việc đánh giá toàn trạng cơ thể bệnh nhân để có thể lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp.

2. Phương pháp điều trị

Có nhiều phương pháp điều trị ung thư gan đã được ứng dụng trong lâm sàng cũng như còn trong giai đoạn thử nghiệm:

Phẫu thuật cắt gan: Là phương pháp điều trị kinh điển, thường chỉ định phẫu thuật khi khối u còn khu trú dưới ba phân thùy gan, chưa có di căn phổi và chức năng gan còn tốt. Hiện nay, đã có nhiều phương pháp mới ít xâm lấn hơn do vậy chỉ định phẫu thuật cắt gan đã giảm nhiều.

Nút mạch hóa dầu động mạch gan (TOCE – Transarterial Oily Chemoembolization): Nút mạch hóa dầu động mạch gan là dựa trên cơ sở nguồn cung cấp máu cho mô ung thư gan phần lớn là từ động mạch gan, hóa chất chống ung thư được đưa tới các tế bào ung thư thông qua ống thông đồng thời với việc gây nút tắc lại nguồn máu nuôi các tế bào ung thư, kết quả là các tế bào ung thư sẽ chết, khối u bị hoại tử. Với phương pháp này 100% bệnh nhân có kích thước khối u nhỏ hơn 2 cm còn sống sau 3 năm.

Phương pháp này có ưu điểm là tránh được vết mổ, điều trị trực tiếp lên khối u, các hóa chất hủy diệt khối ung thư ít gây tổn thương tới nhu mô lành lân cận. Đây còn được coi như là biện pháp hỗ trợ điều trị phẫu thuật cắt gan hoặc ghép gan. Tuy vậy phương pháp này không thể áp dụng đại trà cho các thể ung thư gan.

Tiêm cồn tuyệt đối vào khối u qua da (PEIT - Percutaneous Enthanol Injection Therapy): Cơ sở của phương pháp này là dựa vào đặc tính của cồn tuyệt đối có tác dụng làm mất nước, đông vón protein, gây độc tế bào đồng thời làm bít tắc các mạch máu nuôi khối u. Dưới hướng dẫn của siêu âm, thầy thuốc dùng kim tiêm bơm cồn tuyệt đối vào khối u và vì vậy khối u sẽ bị hoại tử.

Liệu pháp này đơn giản, an toàn, không tốn kém. Thường chỉ định tiêm cồn qua da với khối u gan dưới 3 cm có thể lên tới 6 cm và không quá 3 khối u. Nhiều kết quả nghiên cứu thấy rằng tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 40% với các khối u nhỏ dưới 3 cm. Biến chứng thường gặp sau tiêm là rò rỉ cồn ra bao gan và vào khoang bụng gây đau và sốt... cần được theo dõi chặt chẽ, tuy nhiên tỷ lệ tử vong do thủ thuật là rất thấp.

Đốt nhiệt khối u bằng sóng cao tần (RFA - Radiofrequency Ablation): Dưới hướng dẫn của siêu âm hay qua nội soi ổ bụng, thầy thuốc đưa kim điện cực vào khối u, tác dụng của sóng cao tần sẽ làm hoại tử khối u. Phương pháp này có hiệu quả tốt với khối u dưới 3 cm. Tác dụng phụ hay gặp là rối loạn nhịp tim, sốt, chảy máu… Tuy vậy biến chứng nặng nề rất hiếm gặp.

Ung thư gan nguyên phát thường xuất hiện trên nền bệnh xơ gan hoặc viêm gan mạn tính, chức năng gan suy giảm nhiều, vì vậy việc lựa chọn phương thức điều trị thích hợp với từng bệnh nhân cụ thể là rất quan trọng; thông thường phải được các thầy thuốc chuyên khoa cân nhắc cẩn thận và có hệ thống.

Ở Việt Nam hiện nay, nhiều bệnh viện đã có thể thực hiện các phương pháp trên để điều trị ung thư gan với hiệu quả tốt, có thể kết hợp giữa các phương pháp với nhau như TOCE với tiêm cồn hoặc đốt nhiệt cao tần… Ngoài ra, những phương pháp khác có thể được chỉ định như: tiêm acid acetic, đốt nhiệt khối u bằng sóng viba, điều trị hóa chất, điều trị nội tiết, điều trị miễn dịch, xạ trị, áp lạnh, hóa trị; điều trị gen, ghép gan cũng là hướng có nhiều triển vọng tuy rằng có những khó khăn nhất định.

3. Phát hiện sớm và phòng bệnh

Hiện nay, phát hiện sớm ung thư gan nguyên phát có nhiều khó khǎn do điều kiện chǎm sóc sức khỏe ban đầu ở nước ta còn chưa tốt, do sự phát triển thầm lặng của bệnh và tâm lý chủ quan của bệnh nhân. Hầu hết khối u được phát hiện khi đã quá to, làm cho khả năng lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp giảm đi rất nhiều.

Phát hiện sớm ung thư gan có thể dựa vào kiểm tra định kỳ bằng siêu âm và định lượng AFP ở tất cả các đối tượng có nguy cơ cao như: xơ gan, viêm gan mạn, người mang virus viêm gan B, C, người nghiện rượu và mắc các bệnh gan mạn tính khác; thông thường nên làm 3 đến 6 tháng một lần. Khi nghi ngờ có thể bổ sung bằng: chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm để làm xét nghiệm tế bào và mô bệnh học…

Ung thư gan nguyên phát liên quan chặt chẽ với nhiễm viêm gan virus và bệnh xơ gan vì vậy để phòng ngừa cần chống lây nhiễm virus viêm gan đặc biệt là virus B, C bằng cách cắt các đường lây truyền, tiêm vaccin, khi bị nhiễm cần điều trị triệt để bằng thuốc kháng virus; hạn chế uống rượu; liên quan tới độc tố aflatoxin do nấm Aspergillus Flavus hay có ở một số thực phẩm như lạc, đậu tương mốc… do vậy bạn cũng cần biết để có cách phòng tránh khi ăn các thực phẩm này.

About this entry

Đăng nhận xét

 

MedicineNet Daily News

Medscape Medical News Headlines

WebMD Health


About me | Author Contact | Powered By Blogspot | © Copyright  2008