Có thể được dùng như vaccin cho một virus riêng lẻ hay vaccin cho hai virus kết hợp.
Rubella
Sự nhiễm Rubella trong thời kỳ đầu thai kỳ có thể dẫn đến sẩy thai, sinh con đã chết (tử sản) và sinh con dị tật. Do đó vaccin MMR nên được chủng cho :
Tất cả trẻ em dưới một tuổi, liều bổ sung được chủng khi 4-6 tuổi hay 11-12 tuổi.
Tất cả phụ nữ tuổi sinh đẻ không chắc chắn đã được chủng ngừa khi nhỏ hay không có xét nghiệm thử máu đã có miễn dịch.
Những nhân viên y tế có nguy cơ tiếp xúc với Rubella và phải tiếp xúc với phụ nữ có thai.
Phụ nữ độ tuổi sinh đẻ nên xin ý kiến về việc chủng ngừa Rubella với bác sĩ của họ.
Sởi
Nhiễm sởi có thể gây nên những lây nhiễm ở phổi và não nghiêm trọng ở người lớn. Người lớn sinh trước năm 1956 thường miễn dịch với sởi và không cần tiêm chủng sởi. Những người nên được tiêm ngừa (với MMR hay vaccin sởi) bao gồm :
Người lớn sinh sau năm 1956 không có bằng chứng miễn dịch vào hay sau lần sinh nhật đầu tiên.
Những người du lịch từ nước ngoài.
Sinh viên mới vào đại học.
Nhân viên y tế sinh sau năm 1956 có nguy cơ tiếp xúc với bệnh nhân mang sởi.
Quai bị
Chủng ngừa quai bị được khuyên cho tất cả người lớn sinh sau năm 1957 là năm đầu tiên vaccin được sử dụng (những sinh trước 1957 dễ nhiễm sởi hơn nên được xem như đã có miễn dịch) và những người trước đây chưa từng được chủng ngừa hay bị quai bị.
Vaccin MMR nên chủng ngừa như thế nào ?
Ðối với Rubella và quai bị chỉ một liều duy nhất MMR cho người lớn.
Ðối với sởi, 2 liều vaccin sởi hay MMR được chủng cho sinh viên và chuyên viên y tế có nguy cơ tiếp xúc với sởi. (Liều thứ 2 nên sau liều đầu tối thiểu 1 tháng). Ðối với những người khác chỉ cần 1 liều.
Ðối với thai phụ và phụ nữ cho con bú
MMR được chế từ những virus sống đã được biến đổi từ những virus gây bệnh. Tuy vậy, không có bằng chứng vaccin này gây sinh con dị tật, phụ nữ có thai nên được chủng MMR.
Phụ nữ cũng mang thai nên tránh vừa tiêm chủng vaccin MMR hay bất kì vaccin nào khác có chứa Rubella.
Ðối tượng không nên chủng vaccin MMR
Những bệnh nhân dị ứng với trứng hoặc có những phản ứng quá mẫn với neomycin.
Phụ nữ có thai.
Bệnh nhân có hệ miễn dịch suy giảm.
Bệnh nhân có vi khuẩn lao hoạt động chưa được điều trị.
Việc chủng ngừa nên tạm hoãn trong những nhóm sau :
Người lớn đang bị bệnh cấp tính có sốt
Bệnh nhân đang điều trị liều cao corticosteroid như prednisone, cho đến tối thiểu 3 tháng sau khi ngưng dùng corticosteroid.
Tác dụng chính và tác dụng phụ của vaccin MMR ?
Hơn 95% trường hợp có tác dụng lâu dài.
Tác dụng phụ của MMR bao gồm đau khớp hay viêm khớp có thể xảy ra 1-3 tuần sau khi chủng ngừa và kéo dài nhiều ngày đến nhiều tuần.
Tác dụng phụ khác bao gồm phát ban, sốt, và nổi hạch bạch huyết.
Poliovirus (virus bại liệt)
Có 2 loại vaccin ngừa virus bại liệt: vaccin có virus bại liệt sống đưa vào cơ thể qua đường uống (OPV - oral live poliovirus vaccine) và vaccin virus khử độc tính (IPV- inactivated poliovirus vaccine).
OPV chứa virus sống đã được biến đổi từ virus dại (virus gây viêm tuỷ xám và bại liệt).
IPV chứa những virus đã bất hoạt (đã chết) và không gây viêm tuỷ xám và bại liệt. Vì vậy hiện nay IPV được khuyên dùng cho người lớn và trẻ em.
Những ai nên chủng ngừa vaccin bại liệt ?
Các chuyên gia khuyên tất cả trẻ em nên được chủng ngừa IPV , việc chủng ngừa IPV được khuyên chỉ cho người lớn, những người chưa được chủng ngừa hoặc chủng ngừa không hoàn chỉnh và những ai có khả năng tiếp xúc với virus bại liệt (chưa xử lý hoặc đã giảm độc lực) :
Những người du lịch đến những vùng có nhiều người nhiễm bại liệt.
Ðang sống trong những cộng đồng đã thống kê nhiễm virus bại liệt chưa xử lý.
Những nhân viên phòng thí nghiệm thao tác trên những mẫu thử chứa virus bại liệt.
Nhân viên y tế phải tiếp xúc với những bệnh nhân đã nhiễm virus bại liệt hoang dã.
Vaccin virus bại liệt nên được chủng ngừa như thế nào ?
Thanh niên và người lớn chưa được chủng ngừa nên dùng 3 liều, liều thứ hai vào 4-8 tuần sau liều thứ nhất và liều thứ ba vào 6-12 tháng sau liều thứ hai.
Thanh niên và người lớn chưa được chủng ngừa hoàn chỉnh nên hoàn tất đủ 3 liều.
Người lớn đã có miễn dịch khi còn bé nhưng phải tiếp xúc với virus bại liệt chưa xử lý nên chủng ngừa một liều IPV.
Ðối với thai phụ và phụ nữ cho con bú.
Chưa thấy tác dụng hại trên thai phụ, nói chung nên tránh chủng ngừa cho phụ nữ có thai trừ những trường hợp bắt buộc.
Ai không nên chủng ngừa vaccin bại liệt ?
IPV không nên dùng cho người đã có phản ứng quá mẫn với liều trước, hay những người có phản ứng quá mẫn dữ dội với streptomycin., polymyxin B, hay neomycin.
Tác dụng chính và tác dụng phụ của vaccin ngừa bại liệt .
OPV có thể gây viêm tuỷ xám và bại liệt nhưng rất hiếm (1 trong 6 triệu liều).
IPV không gây bại liệt. IPV có thể gây đau khu trú với mức độ ít và sưng vùng chích.
Đăng nhận xét