Bài viết tương đối dài, mời bạn click vào "tiêu đề" hoặc "đọc thêm..." để xem toàn bộ bài viết
I/ TRIỆU CHỨNG:
A. Lâm sàng:
1. Ngạt nước:
a. Sau 3-4 phút vùng vẫy, nạn nhân hít phải nước rồi ngừng thở sau đó ngừng tim.
Nạn nhân xanh tím, bọt hồng sùi đầy mũi, miệng, khi vớt lên thì trào ra.
b. Xét nghiệm:
Xét nghiệm máu thấy có:
- Tình trạng toan máu nếu là nước ngọt.
- Thay đổi thể tích máu: loãng máu nếu là nước ngọt, đặc máu nếu là nước mặn. Tuy nhiên dù là nước ngọt hay nước mặn, cuối cùng nạn nhân thường cô đặc máu (Hct tăng, hồng cầu tăng).
c. Vài giờ sau khi sơ cứu, nếu không can thiệp sớm, phù phổi cấp sẽ xuất hiện.
2. Shock do ngạt nước hay nước giật:
Xuất hiện dưới 3 hình thức:
a. Trường hợp nhẹ: ớn lạnh, khó chịu, cảm giác co thắt ngực và bụng, buồn nôn, chóng mặt, sau đó nhức đầu, mạch nhanh, nôn mửa, nổi mề đay theo kiểu dị ứng (với nước).
b. BN có thể chuyển từ nhẹ sang nặng, với các triệu chứng trụy mạch, mề đay, ngất.
c. Ngất đột ngột trong khi bơi, ngất trắng kiểu ức chế TK, nạn nhân chìm luôn không giãy giụa, kêu cứu được. Đôi khi vừa nhấn mình xuống nước, nạn nhân đã cảm thấy thay đổi, chóng mặt, ù tai, đỏ da, ngứa nhưng vẫn tiếp tục bơi, dẫn đến ngất và chìm xuống nước.
Tóm lại, chết đuối có thể bắt đầu bằng ngạt rồi ngất hoặc ngất rồi ngạt. Vì vậy về mặt xử trí cũng không có gì thay đổi.
3. HC sau ngạt nước:
Sau khi thở lại và tim đập trở lại, BN còn bị đe dọa bởi nhiều biến chứng:
- Giảm thân nhiệt.
- Rối loạn TK do mất oxy não: lẫn lộn, giãy giụa, hôn mê, HC bó tháp, co giật.
- Phù phổi cấp, vì vậy khi BN được đưa đến đơn vị cấp cứu phải chụp phổi ngay (HC suy hô hấp cấp tiến triển ARDS).
- Trụy mạch.
B. Xét nghiệm:
1. Thay đổi về các chất khí và kiềm toan máu rõ ràng: SaO2 giảm, pH máu giảm, toan hô hấp biểu hiện một tình trạng suy hô hấp cấp. Ngoài ra, nạn nhân còn có toan chuyển hóa.
2. Các rối loạn nước và điện giải máu thường biểu hiện một tình trạng mất nước ngoài tế bào, hiện tượng đặc máu, dù là ngạt nước ngọt hay mặn. Nguyên nhân là do nạn nhân thở nhiều và xuất tiết nhiều.
3. Tình trạng tán huyết, rất ít gặp.
4. Đường huyết thường tăng.
II/ XỬ TRÍ:
A. Hướng xử trí:
1. Hai phương châm cơ bản:
- Sơ cứu tại chỗ, tích cực, đúng phương pháp.
- Kiên trì cấp cứu trong nhiều giờ.
2. Các biện pháp xử trí chủ yếu nhằm:
- Giải phóng đường hô hấp.
- Đem lại oxy cho nạn nhân.
- Chống các rối loạn tim phổi và chuyển hóa.
B. Xử trí cụ thể các giai đoạn cấp cứu:
1. Xử trí tại chỗ:
Là quan trọng nhất, quyết định tiên lượng của nạn nhân, nếu xử trí chậm, trung tâm cấp cứu sẽ phải đối phó với tình trạng mất não.
a. Theo kinh nghiệm cấp cứu ngạt nước, phải cấp cứu ngay ở dưới nước: nắm tóc nạn nhân để nhô đầu lên khỏi mặt nước, tát 2-3 cái mạnh vào má nạn nhân để gây phản xạ hồi tỉnh và thở lại, quàng tay qua nách nạn nhân và lôi vào bờ. Nếu lôi được nạn nhân lên thuyền thì phải tiến hành hô hấp miệng- miệng. Nếu ngừng tim thì đấm mạnh vào vùng trước tim 5-6 cái.
b. Khi đưa được nạn nhân lên mặt đất, phải tiến hành hô hấp miệng- miệng.
c. Vấn đề quan trọng là giải phóng hô hấp đem lại oxy cho nạn nhân.
- Để nạn nhân nằm ưỡn cổ, lấy khăn lau sạch mũi, họng, miệng, rồi tiến hành ngay hô hấp miệng- miệng. Nếu có ngừng tim (không có mạch bẹn) phải bóp tim ngoài lồng ngực.
- Động tác dốc ngược nạn nhân chỉ có tác dụng khai thông hầu họng, miệng, không nên thực hiện ở người lớn và không kéo dài quá 1 phút ở trẻ em.
- Cần tiến hành hô hấp miệng- miệng và bóp tim ngoài lồng ngực cho đến khi kíp cấp cứu đến hoặc cho đến khi tim đập trở lại và hoạt động hô hấp trở lại.
d. Khi kíp cấp cứu đã đến:
- Có thể thay hô hấp miệng- miệng bằng dụng cụ hô hấp xách tay như bóng Ambu sau khi đặt canun Guedel hay Mayo và hút đờm dãi, hút nước ở dạ dày.
- Nếu tình trạng thiếu oxy đã bớt, và nếu người cấp cứu có kinh nghiệm, thì có thể đặt ống nội khí quản, bóp bóng và cho thở oxy.
- Chích máu ngay tại chỗ: chích máu có tác dụng gây phản xạ kích thích hô hấp và giải quyết vấn đề huyết động (tuần hoàn trở về ứ đọng, tăng áp ĐM phổi), nhưng chỉ chích máu khi tình trạng huyết áp còn tốt.
Chỉ định chích máu nên thực hiện sớm khi: nạn nhân vẫn hôn mê sau khi hồi sức tích cực hoặc có các biểu hiện biến chứng muộn như khạc bọt màu đỏ, khó thở, giãy giụa, sốt, đe doạ phù phổi cấp (ran ẩm, thở nhanh, cánh mũi phập phồng, xanh tím). Ở đây có thể cân nhắc đến vấn đề ngất trắng và ngất tím.
Nếu mặt nạn nhân trắng bệch hay trụy mạch thì không nên chích máu. Chích máu phải nhanh gọn (bằng dao mổ cắt tĩnh mạch) và nhiều người lớn phải rút 350-450ml máu trong 5 phút.
2. Vấn đề vận chuyển đến đơn vị hồi sức có trang thiết bị đầy đủ khi:
- BN đã thở lại, giãy giụa, kêu la.
- BN vẫn hôn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở. Tuy nhiên nếu điều kiện vận chuyển khó khăn, đơn vị hồi sức ở xa, nên chích máu, đặt ống nội khí quản, bóp bóng trước khi vận chuyển. Trong lúc vận chuyển vẫn phải tiếp tục hồi sức.
3. Tại BV hoặc trung tâm cấp cứu:
Có nhiều tình huống:
a. Nếu BN vẫn chưa hồi tỉnh, phải bóp bóng Ambu cho thở oxy rồi tiến hành đặt ống nội khí quản hoặc mở khí quản hô hấp nhân tạo có PEEP.
b. Chống rung tim, trụy mạch và phù phổi cấp (lasix, chích máu sớm nếu áp lực TM trung tâm tăng quá 15cm nước).
c. Điều chỉnh thăng bằng kiềm toan, nước và điện giải. Cần chú ý đến tình trạng mất nước ngoài tế bào, cô đặc máu sau ngạt nước, nhất là trong những ngày sau đó (truyền huyết tương). Tuy nhiên khi truyền dịch phải cẩn thận, dựa vào áp lực TM trung tâm, đề phòng truyền dịch quá nhanh sẽ gây phù phổi cấp.
d. Nên chụp phổi theo dõi phù phổi cấp và bội nhiễm.
e. Nếu BN không tím và bắt đầu tỉnh: chỉ cần hút đờm dãi, thở oxy mũi, cho kháng sinh theo dõi 48h. Nếu tình trạng suy hô hấp nặng lên, xanh tím, phải đặt ống nội khí quản, hút đờm dãi, thở máy có PEEP.
Đăng nhận xét